Nhân cái chết bất ngờ và bí ẩn của ông Kim Jong-nam, người anh em cùng cha khác mẹ với nhà lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong-un, BBC Tiếng Việt đã có cuộc thảo luận về sự khác biệt của hai nước Nam Hàn và Bắc Hàn.
Nhà báo Hồng Nga và Nguyễn Giang chia sẻ những cảm nhận về hai đất nước Nam, Bắc Hàn mà họ đã có dịp tới thăm.
Tới Bắc Hàn năm 2015, nhà báo Hồng Nga nói: "Cảm nhận của Hồng Nga, một người khi còn bé đã qua thời kỳ bao cấp ở Việt Nam nên khi sang đó đã không thực sự ngỡ ngàng như các bạn trẻ năm nay 19-20 tuổi. Các bạn trẻ mà sang Bắc Hàn thì chắc là sẽ ngỡ ngàng.
"Cái khó khăn và nghèo đói của Việt Nam thời kỳ bao cấp những năm 1970-80 - mặc dù Hồng Nga chỉ phải trải qua một thời gian ngắn thôi - nhưng nó vẫn in đậm trong tâm trí của mình nên đã không thấy ngỡ ngàng khi tới đây.
"Khung cảnh đất nước rất nghèo, và điều ấn tượng nhất là không khí u ám, trầm uất ở người dân. Không thấy cảnh người dân tươi cười trên đường phố đâu."
Người dân Bắc Hàn ngại tiếp xúc với người nước ngoài vì rất sợ liên lụy, nếu bị an ninh chứng kiến đang nói chuyện với người nước ngoài thì sẽ bị phiền toái nhiều vì thế không có sự thân thiện, vui vẻ như ở các nước châu Á khác.
Tuy nhiên trong chuyến đi tới Bắc Hàn, nhà báo Hồng Nga đã có cơ hội tiếp xúc với một cán bộ của Bắc Hàn, đó là người phụ trách du lịch.
"Khi người nước ngoài vào Bắc Hàn bao giờ cũng có nhân viên du lịch đi kèm rất sát sao. Những người này tuy chưa bao giờ ra nước ngoài nhưng nói tiếng Anh tiếng Pháp rất thành thạo và chắc những người này cũng được sự chỉ đạo của cơ quan an ninh để đi theo người nước ngoài và quan sát xem họ làm gì tại đất nước của họ.
"Người quản lý du lịch có lẽ cũng là người có vai vế gì đó trong chính quyền và tất cả những người này đều phải là đảng viên của đảng cầm quyền. Họ tỏ ra nhã nhặn, thông thạo tiếng nước ngoài và tỏ ra mến khách còn đằng sau như thế nào thì không thể biết được,"nhà báo Hồng nga nói.
Là người đã từng tới cả Nam Hàn, Hồng Nga cho biết Hàn Quốc lại khác hẳn.
"Khi tới Hàn Quốc, tôi thấy người dân cười nói ngoài đường, và khi gặp người nước ngoài họ cũng tận tình chỉ bảo nhưng khi tới Bắc Hàn thì có sự lạnh lẽo, sợ bóng sợ gió nào đó mà dường như mình đã chứng kiến ở đâu đó rồi."
Cảnh tưởng hàng ngàn người dân Bắc Hàn cùng kêu khóc tại tang lễ của lãnh tụ Bắc Hàn, ông Kim Jong-il, khiến gợi nhớ tới cảnh tương tự như vậy tại Trung Quốc và Việt Nam. Cảnh tượng đó với nhiều người Phương Tây là một điều khá sửng sốt nhất là ở thế kỷ thứ 21.
Tuy nhiên, nhà báo Nguyễn Giang cho rằng không nên phê phán chỉ chế độ tại Bình Nhưỡng vì theo nhà báo thì Bắc Hàn cũng là nạn nhân của thời kỳ chiến tranh lạnh khi các cường quốc cụ thể là Liên Xô và Mỹ đã chia cắt bán đảo Triều Tiên sau khi cuộc chiến chấm dứt vào tháng 7/1953.
Lý giải về tình trạng dường như khép kín và bưng bít của xã hội Bắn Hàn nhà báo Nguyễn Giang cho rằng một phần là do vị thế địa lý.
"Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều tiên là một bán đảo, một bên là Trung Quốc, có giáp biên giới với Nga rất ngắn, và phía nam là một giới tuyến thù địch mà thời đó gọi là phe tư bản chủ nghĩa, còn bên này là phe xã hội chủ nghĩa - nên người dân không thể đi đâu được," nhà báo Nguyễn Giang nói.
"Bắc Hàn khác với Việt Nam. Việt Nam có nhiều mối quan hệ với châu Âu, với Pháp và các nước châu Mỹ Latin và với cả vùng Đông Nam Á nhờ vị trí địa lý.
"Trong khi Bắc Hàn bị kẹt vào một vị trí địa lý như một cái hẻm núi đâm ra đời sống tâm lý của họ và cuộc sống khắc khổ ở đó cũng bị tác động phần nào.
"Sau này, sự bao vây của Phương Tây cũng khiến cho xã hội bị tù túng, mà trong một xã hội tù túng thì cũng dễ trở thành không có lối thoát về mặt tư tưởng. Và về mặt tâm lý thì người ta chỉ nghe theo - tất nhiên là cũng bị hệ thống đè nén về mặt chính trị và xã hội.
"Người dân chỉ nhìn thấy một mô hình: đó là một gia đình lãnh tụ mấy đời làm lãnh đạo, và khi một lãnh tụ qua đời thì cái tâm lý rất tự nhiên là họ than khóc rất thảm thiết, bởi vì họ không biết đến một mô hình nào khác."
Người Bắc Hàn hầu như không được xuất ngoại, và gần đây chỉ có một số công nhân được đưa sang vùng Siberia của Nga để lao động, gửi tiền về cho gia đình. Chính những giao lưu của bán đảo Triều Tiên với bên ngoài cũng rất hạn hẹp.
"Đây là tình trạng một chế độ theo mô hình Stalin từ thập niên 50-60 vẫn còn duy trì đến bây giờ. Đây là một bi kịch của một quốc gia," nhà báo Nguyễn Giang nói.
Tuy nhiên nhà báo Hồng Nga nói thêm rằng tất cả những quan sát đó cũng chỉ là của người ngoài cuộc và có lẽ phải sống chính trong xã hội đó, phải bị cọ sát hàng ngày với những hiện tượng trong xã hội đó thì mới có thể khẳng định chính xác được.
"So sánh giữa hai nước cộng sản là Bắc Hàn và Trung Quốc, có thể thấy Trung Quốc là một nước rất lớn trong khu vực và bất cứ động thái nào của Trung Quốc cũng ảnh hưởng tới các nước xung quanh. Có nghĩa là trong những phát triển xã hội và chính trị của Bắc Hàn, Trung Quốc luôn đóng vai trò rất quan trọng.
"Xưa nay Trung Quốc vẫn được cho là một nước đồng minh lớn của Bắc Hàn, và là một trong năm nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ. Trung Quốc là cầu nối giữa Hội đồng Bảo an LHQ cũng như giữa quốc tế với Bắc Hàn, để giữ nhiệt độ tại bán đảo Triều Tiên không quá nóng.
"Thế nhưng trong mấy năm gần đây, Trung Quốc có vẻ bắt đầu lạnh nhạt với Bắc Hàn hơn, mặc dù Trung Quốc vẫn muốn duy trì quan hệ tốt đẹp, vì nếu có chuyện gì xảy ra tại Bắc Hàn chẳng hạn thì làn sóng người tị nạn từ Bắc Hàn chạy sang Trung Quốc sẽ là vô cùng ồ ạt và sẽ rất khó kiểm soát.
"Nhưng gần đây quan hệ dường như xấu đi. Và người ta cho rằng đó là một trong những lý do dẫn tới những lủng củng hiện tại giữa hai nước hiện nay," nhà báo Hồng Nga nói.
Khoảng cách từ Washington tới miền đông của Bắc Hàn chỉ vào khoảng 12.700 km, mà tên lửa Hwasong-15 có tầm xa 13.000 km nếu được phóng theo quỹ đạo thông thường thay vì phóng thẳng lên không trung.
Bản quyền hình ảnhJUNG YEON-JEImage captionĐường bay của tên lửa Hwasong-15 như mô tả trên truyền hình Nam Hàn
Như vậy thì hăm dọa của Bình Nhưỡng có thể tấn công bất cứ nơi nào trên lục địa Mỹ là khả tin?
Trong thời gian qua, dư luận quốc tế phần nhiều là chỉ bình luận về sự tiến bộ nhanh chóng của Bắc Hàn: tên lửa xuyên lục địa, đầu đạn nguyên tử, vũ khí hóa học, chiến tranh mạng, và hình ảnh một cuộc chiến khốc liệt có thể xảy ra.
Sở dĩ như vậy là vì ông Kim Jong-un luôn đe dọa là sẽ tấn công phủ đầu nước Mỹ bằng nguyên tử (preemptive strike). Bộ trưởng Quốc Phòng James Mattis nói với Quốc Hội là Bắc Hàn đã "thay thế Nga trở thành mối nguy hiểm số một" (6/2017).
Ông lại vừa tuyên bố "Bắc Hàn đe dọa gấp rút và nguy hiểm nhất cho hòa bình và an ninh".
Nhưng câu hỏi đặt ra là: khi ồ ạt phóng tên lửa ngay từ lúc Tổng thống Donald Trump vừa đăng quang, rồi tăng tốc từ đó thì mục đích của Bình Nhưỡng là gì? Liệu ông Kim Jong Un có thực sự nghĩ rằng sẽ "cho Mỹ nếm mùi cay đắng" như từng tuyên bố hay không?
Nếu không thì với mục đích gì? Và rồi cuộc khủng hoảng hiện nay sẽ đi tới đâu?
Giải mã chiến lược của Bình Nhưỡng
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionÔng và cha: Kim Il-sung và Kim Jong-Il. Giấc mơ nguyên tử nay đã sang đến đời cháu
Trả lời câu hỏi đầu tiên: chắc chắn là KHÔNG, ông Kim Jong-un không thực sự nhắm vào lục địa Mỹ (như đề cập chi tiết dưới đây).
Vậy ông ta theo đuổi mục đích gì? Mục đích là gây áp lực tối đa đối với Mỹ bằng cách chứng minh - một cách thuyết phục - rằng mình đã thực sự có sức mạnh nguyên tử - vừa đầu đạn, vừa sức phóng - "ngang bằng với Mỹ", như chính ông ta đã nói. Thêm vào đó là những vũ khí hóa học, tấn công mạng.
Áp lực tối đa với mục tiêu nào? Mục tiêu là để Mỹ phải điều đình, tiến tới việc rút quân khỏi Nam Hàn, điều kiện tiên quyết mà Triều đại 'Nhà Kim' (The Kim Dynasty) đã đưa ra để thống nhất đất nước.
Giấc mơ không ngừng về thống nhất
Sở dĩ chúng tôi có thể đoan chắc như trên đây vì con đường ông Kim Jong-un đang đi thì cũng chỉ là tiếp nối những bước đi của Kim Il-sung (Kim Nhật Thành), người ông, và Kim Jong-il (Kim Chính Nhất), người cha của ông ta, để theo đuổi giấc mơ tiến tới một nước Triều Tiên thống nhất.
Muốn như vậy thì phải áp lực cho bằng được để Mỹ rút ra khỏi Nam Hàn. Nhưng làm sao đẩy được Mỹ ra? Bắc Hàn cho rằng chỉ có một giải pháp duy nhất: đó là phải có vũ khí nguyên tử.
Cuộc hành trình 61 năm của người ông và người cha (1950 tới 2011) đã không thành công, cho nên trối lại sứ mệnh này cho người con, người cháu trẻ tuổi nhất, hăng say nhất.
Vì còn quá trẻ, lại không có con lớn đủ để kế vị mình, cho nên ông Kim Jong-un phải vội vã hoàn thành sứ mệnh cho lẹ.
Kim II-sung với quyết định nguyên tử
Vừa lên ngôi năm 1948, ông Kim Il-sung đã nghĩ ngay tới thống nhất bằng quân sự. Ông tung quân sang qua vĩ tuyến 38 tấn chiếm Nam Hàn (6/1950).
Về phía Trung Quốc thì ông Mao - dù vừa mới chân ướt chân ráo tiến vào Bắc Kinh - đã dùng chiến thuật biển người, đưa tới 300.000 quân sang yểm trợ.
Bản quyền hình ảnhFREDERIC J. BROWNImage captionQuyết tâm tự cường bằng vũ khí nguyên tử của Bình Nhưỡng đã có mấy thế hệ
Nếu như không có Tướng Mỹ Douglas MacArthur đẩy lui thì mộng thống nhất đã thành công ngay từ thập niên 1950 rồi. Vì bị đẩy lui cho nên, sau ba năm chinh chiến (1950-1953) với bao nhiêu tổn thất nặng nề cho cả Bắc Hàn lẫn Trung Quốc, cuối cùng ông Kim Il-sung lại phải rút quân về vị trí ban đầu.
Theo Tiến sĩ Sung-yoon Lee tại Fletcher School, Đại học Tufts thì "hạt giống nguyên tử đã được gieo ngay từ Cuộc chiến Triều Tiên." Đó là vì ông Kim Il-sung thấy thất bại của mình chỉ là vì Mỹ có vũ khí nguyên tử, còn Bắc Hàn và Trung Quốc thì chưa có nguyên tử, cho nên phải chấp nhận ngưng chiến.
Từ đó ông quyết định bất cứ chiến lược nào để thống nhất thì cũng phải có khí giới nguyên tử.
Khi chúng tôi nghiên cứu để viết cuốn sách 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào' thì mới biết rằng Tổng thống Dwight Eisenhower lúc vừa thắng cử (1952) đã bí mật đi Đại Hàn để nhận xét tại chỗ.
Là vị tướng lão thành và đã chỉ huy cuộc đổ bộ Normandy, ông đi tới kết luận là trong trường hợp này chỉ còn có cách là sử dụng vũ khí nguyên tử như ở Hiroshima. Và ông đã cho Trung Quốc và Bắc Hàn biết quyết định ấy.
Nhờ cậy Mao khi thấy Mỹ bỏ Nam Việt Nam
Ít ai biết đến cái gạch nối giữa sự sụp đổ của Miền Nam và quyết định đẩy mạnh thống nhất của ông Kim Il-sung. Giữa tháng 4/1975, khi quân đội Bắc Việt tiến tới Xuân Lộc, cái chốt cuối cùng trước của ngõ vào Sài Gòn, ông Kim gấp rút đi Trung Quốc cầu viện.
Đem nửa triệu quân vào Nam Việt Nam, nhưng rút cục thì Mỹ cũng phải tháo chạy. Vậy thì với 50.000 quân đóng ở DMZ (chỉ bằng 10% quân số của Mỹ ở Việt Nam), tại sao không thể đẩy Mỹ ra?
Cho nên ông quyết định làm việc này qua vũ khí nguyên tử.
Ngày 18/4/1975, ông lãnh đạo một phái đoàn cao cấp đi Bắc Kinh họp với Trung Quốc gồm cả ông Đặng Tiểu Bình trước khi hội kiến với Chủ tịch Mao.
Đây là chuyến đi quan trọng nhất đối với ông Kim vì là chuyến xuất ngoại đầu tiên kể từ khi ông đi thăm viếng Liên Xô và Trung Quốc năm 1961 và Indonesia vào năm 1965.
Cuộc họp kéo dài trong ba ngày: 19, 23, và 26/4. Nội dung những cuộc bàn bạc là gì thì vẫn còn là một bí ẩn chưa bao giờ được công khai chi tiết.
Nhưng Giáo sư Trầm Chí Hoa (Shen Zhihua), từ Đại học Sư phạm Hoa Đông trong cuốn sách 'The Last Heavenly Dynasty: China and North Korea in the Age of Mao Zedong and Kim Il-sung' đã tiết lộ rằng ông đã tìm được những thông tin có thể trả lời dứt khoát cho câu hỏi này.
Theo ông Trầm thì cuộc họp đã xảy ra vào lúc Miền Bắc Việt Nam đang chiến thắng Mỹ, và tại Campuchia thì chính phủ thân Mỹ cũng sắp bị triệt hạ.
"Thưa Chủ tịch Mao, chiến thắng của Việt Nam cũng giống như chiến thắng của chúng tôi," ông Kim nói với ông Mao khi bàn về những biến chuyển mới.
Bản quyền hình ảnhSTRImage captionMao Trạch Đông và Kim Nhật Thành (Kim Il-sung) tại Bắc Kinh
"Ông Kim trình bày ý muốn của mình là dùng võ lực để thống nhất cũng như vậy."
Ông Mao từ chối nên ông Kim Il-sung đã quyết định đi một mình.
"'Thưa đồng chí, tôi không muốn thảo luận về các vấn đề chính trị nữa,' ông Mao nói lảng đi và trả lời ông Kim. Cuộc đối thoại kết thúc một cách lạnh nhạt sau 30 phút."
Sở dĩ như vậy vì lúc ấy ông Mao đang đi tới hòa giải và bám sát Hoa Kỳ sau chuyến thăm Bắc Kinh của Tổng thống Richard Nixon (2/1972 ). Ông Mao tiếp tục tránh né yêu cầu của ông Kim.
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Mainichi Shimbun, ông Trầm thêm rằng:
"Ông Kim đã không nói rõ tại cuộc họp rằng ông muốn có một Cuộc chiến Triều Tiên thứ hai, nhưng trước chuyến đi Bắc Kinh, ông đã nói rõ về giải pháp này trong nội bộ Đảng Lao Động, cho nên đã thật rõ ràng là ông đã cân nhắc việc này."
Trong một cuộc phỏng vấn khác với cùng tờ Mainichi Shimbun , Giáo sư Masao Okonogi (từ Keio University) một chuyên gia về những vấn đề Đại Hàn cũng xác định thêm:
"Có nhiều lời đồn rằng năm 1975 Trung Quốc đã từ chối không hỗ trợ Bắc Hàn trong việc muốn thống nhất bằng vũ lực, nhưng không có chi tiết cụ thể nào được tiết lộ. Có điều chắc chắn là ông Kim đã rời khỏi cuộc đàm phán với một cảm nhận rõ ràng rằng Trung Quốc sẽ không giúp mình khi cần đến."
"Phân tích này cho thấy kết quả cuộc họp này đã dẫn đến việc Bình Nhưỡng chia tay với Bắc Kinh để tự mình giải quyết vấn đề, đó là khởi sự của chương trình sản xuất nguyên tử, tiếp tục cho tới ngày nay."
Theo tài liệu nghiên cứu mới đây của Viện Wilson Center ở Washington (2015) thì cuộc họp này được tóm tắt như sau:
Dựa trên những biến chuyển mới ở Đông Dương - mối quan tâm chính của Bắc Hàn trong cuộc họp lịch sử này là muốn phối hợp với Trung Quốc về chính sách tương lai của mình để áp lực Hoa Kỳ phải từ bỏ lập trường bảo vệ Nam Hàn.
Cho nên trong lần xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên ở Bắc Kinh, ông Kim Il-sung đã tuyên bố hết sức mạnh mẽ về việc "giải phóng Nam Hàn". Ông liệt kê ba điều kiện tiên quyết cho việc thống nhất trong hòa bình mà không có lực lượng nào bên ngoài nào xen vào. Đó là:
Mỹ phải rút hết quân đội khỏi Nam Hàn:
Chấm dứt tất cả các sự can thiệp vào nội bộ của Nam Hàn; và
Lật đổ chế độ Park Chung-hee ở Nam Hàn.
Tuy nhiên phía Trung Quốc tuyên bố chỉ ủng hộ chính sách "thống nhất trong hòa bình mà không có sự can thiệp của nước ngoài."
Khai thác uranium
Không được Trung Quốc hỗ trợ, Kim Il-sung chia tay với Bắc Kinh để đến gần Liên Xô. Với sự yểm trợ của Liên Xô thì từ cuối thập niên 1970 tới đầu thập niên 1980, Bắc Hàn đã bắt đầu khai thác được uranium ở nhiều địa điểm gần Sunchon và Pyongsan. Từ đó các hoạt động thí nghiệm và sản xuất tăng mạnh.
Bí ẩn về các trường Bắc Hàn trong lòng nước Nhật
Nhưng ông Kim đã không sống lâu đủ để được trông thấy thử nghiệm nguyên tử đầu tiên. Ông ra đi ngày 8/7/1994 sau khi tại chức 45 năm, một trong những lãnh đạo lâu nhất trong lịch sử.
Kim Jong-Il nối nghiệp cha từ năm 1994 và tuyên bố sẽ tiếp tục các chính sách của cha mình đối với việc thống nhất đất nước. Dưới thời ông, Bắc Hàn đã đi được một bước dài trên đường nguyên tử và tên lửa. Ngày 29/1/2002 Tổng thống George W. Bush gọi Bắc Hàn là một phần của cái 'Trục Ma Quỷ' - Axis of Evil.
Tuy nhiên, xem ra những tiến bộ về nguyên tử thì cũng chỉ là để đưa ông Kim Jong-Il tới cái thế thượng phong, giúp cho ông đàm phán với Mỹ và Nam Hàn.
Năm 1998 Tổng thống Nam Hàn là Kim Dae-jung (Kim Đại Trọng) đưa ra chính sách 'Chiêu dương' (Sunshine Policy) yểm trợ kinh tế cho Bắc Hàn để thúc đẩy thống nhất.
Năm 2000 là một cái mốc lịch sử: ông Kim Jong-Il chấp nhận đề nghị của ông Kim Dae-jung muốn tới Bình Nhưỡng để bàn bạc về việc thống nhất.
Ngày 13/6/2000, ông Kim Jong-il ra tận phi trường đón tiếp ông Kim Dae-jung. Đây là lần đầu tiên kể từ Cuộc chiến Triều Tiên hai nhà lãnh đạo Bắc và Nam Hàn gặp và bắt tay nhau. Cuộc họp ba ngày rất nồng ấm. Thế giới thấy ánh sáng hòa bình ở Bán Đảo Triều Tiên ló rạng. Năm ấy ông Kim Dae-jung được giải thưởng Nobel về Hòa Bình.
Sau đó, đã có nhiều cố gắng tiến tới thống nhất theo một lập trường ba giai đoạn (như đề cập dưới đây). Năm 2007 lại có một cuộc họp thượng đỉnh thứ hai vào ngày 2-4 tháng 10, 2007 giữa ông Roh Moo-hyun, tổng thống Nam Hàn và ông Kim Jong-il.
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionChính sách Chiêu Dương: Tổng thống Kim Dae-jung và Chủ tịch Kim Jong-Il
Nhưng khả năng thống nhất đã tan biến đi với những biến cố năm 2010.
Năm ấy, Bình Nhưỡng bắn chiến hạm Nam Hàn làm cho 46 người thiệt mạng (3/2010) và pháo kích vào một quân đảo của Nam Hàn gần DMZ; 4 người thiệt mạng, 15 binh sĩ và ba thường dân bị thương (11/2010). Nam Hàn cắt hết viện trợ và giao thương với Bắc Hàn, tiếp theo bằng những biện pháp quân sự mạnh mẽ. Hình ảnh chiến tranh lại hiện ra.
Đang khi căng thẳng như vậy thì Kim Jong-il chết bất đắc kỳ tử trên một chuyến xe lửa ngày 17/12/2011.
Tại sao con út Kim Jong-un kế vị?
Trong thập niên 1990, người con cả của ông Kim Jong-il là Kim Jong-nam (Kim Chính Nam) đã được cha chuẩn bị để nối ngôi. Jong-nam đã theo học tại Thụy Sĩ, Nhật Bản và Nga Xô. Nhưng cậu này đã phạm lầm lỗi lớn: dùng thông hành giả mạo với tên là "Pang Xiong" để đi xem Disneyland ở Nhật, nhưng bị Nhật phát hiện và trục xuất sang Bắc Kinh, làm mất mặt cha.
Ngoài ra, Jong-nam lại còn bất đồng ý với cha, muốn cải cách chính sách, cởi mở, nên bị coi là đã trở thành một 'nhà tư bản.' Sau này ông đã trở thành một người chống đối chế độ thực sự, khiến có dư luận cho rằng cái chết của Kim Jong-nam là để ngăn chặn mọi tính toán thay bài của Trung Quốc với Bắc Hàn.
Người con thứ hai là Kim Jong-chul (Kim Chính Triết) thì lại say mê nhạc sĩ Eric Clapton.
Cậu đã đi Anh, Đức, và Singapore để theo dõi các diễn xuất của ông này. Bố cho rằng cậu giống như con gái - "girly" - không thể làm lãnh đạo.
Cho nên chỉ còn có cậu con út là Kim Jong-un (Kim Chính Ân). Tuy rằng cậu này đam mê bóng rổ và hâm mộ Dennis Rodman, nhưng bóng rổ thì mạnh mẽ hơn cây đàn guitar của Eric Clapton, cho nên cũng còn được.
Tuy ông Kim Jong-un còn quá trẻ nhưng có cái lợi là hăng say, và chính vì còn trẻ nên có thể sống lâu đủ để thực hiện mộng của cha và của ông mình.
Kim Jong-un không có con lớn đủ để một ngày nào sẽ kế vị mình. Còn anh là Kim Jong-nam thì đã chết. Người anh thứ hai, Kim Jong-chul thì không có chí, và là người chống đối chế độ nên phải sống lưu đầy ở Macao.
Bản quyền hình ảnhKEYSTONEImage captionMột hầm chứa tên lửa Titan II của Hoa Kỳ - hình minh họa
Như vậy, dòng họ 'Nhà Kim' có thể sẽ kết thúc sau ông Kim Jong-un. Đây có thể là một lý do cắt nghĩa tại sao ông Kim Jong-un đã vội vã tấn công, bắt đầu ngay sự nghiệp với biến cố được gọi là 'Khủng Hoảng Triều Tiên 2013' (Korea 2013 Crisis).
'Khủng Hoảng Triều Tiên 2013'
Chỉ mới có bốn năm mà ít người còn nhớ tới những biến cố này. Về mức khủng hoảng nó cũng không kém khủng hoảng hiện nay là bao nhiêu. Về sự phản ứng của Mỹ thì nó còn mạnh mẽ hơn nhiều:
Ngày 24/1 - Bắc Hàn công bố đã có một vũ khí nguyên tử mới và đã thí nghiệm tên lửa tầm xa, với Hoa Kỳ là mục tiêu chính.
Ngày 8/3 - Bắc Hàn chấm dứt tất cả các hiệp ước hòa bình với Nam Hàn đóng cửa biên giới Bàn Môn Điếm. Tướng lãnh Bắc Hàn xác nhận đang nhắm tên lửa tầm xa tới đại lục Mỹ để trả đũa cho các biện pháp chế tài của Liên Hiệp Quốc.
Hoa Kỳ phản ứng mạnh mẽ, mạnh hơn cả khủng hoảng ngày nay: sử dụng các loại B-52, Stealth B-2A Spirit, B-1B Lancerbombers. Quan trọng nhất là chính cơ quan 'Tư lệnh Phòng thủ Không phận Bắc Mỹ' - NORAD (North American Aerospace Defense Command - nằm dưới hầm sâu ở Nevada) đã phải báo động và chuẩn bị.
Và cứ thế hai bên leo thang cho tới những cuộc hòa đàm từ tháng 4.
Khủng hoảng hiện nay sẽ đi tới đâu?
Nhìn lại diễn biến hai cuộc khủng hoảng lớn trong quá khứ - năm 2010 và 2013 - ta có thể phỏng đoán được rằng: mục đích của Kim Jong-un thì cũng như của cha (năm 2010) và của chính ông ta (năm 2013): đó là áp lực để Mỹ phải điều đình và rút quân khỏi Nam Hàn. Ba thế hệ của 'Nhà Kim", mỗi thế hệ đã nâng áp lực đối với Mỹ lên một cấp.
Ngày nay ông Kim Jong-un đã đẩy áp lực lên tới mức tối đa, cho nên Mỹ cũng khó có thể gạt đi như những lần trước vì thực sự cũng không còn giải pháp nào ngoài điều đình.
Mỹ khó có thể dùng giải pháp quân sự - dù là một giải pháp quân sự có giới hạn, vì bốn trở ngại lớn (constraints):
Nhân mạng của trên hai sư đoàn đóng ở DMZ;
Hàng triệu dân Nam Hàn ở thủ đô Seoul - cách DMZ chỉ có 35 dặm;
Các chiến hạm quanh vùng Hoàng Hải, và sự nguy hiểm cho dân Nhật Bản ở gần bờ biển
Nguy hiểm là cuộc chiến sẽ leo thang thành ra 'Chiến tranh Triều Tiên II,' nhưng lần này là 'Chiến tranh Nguyên tử Triều Tiên.'
Cho nên ngày 13/12/2017 Ngoại trưởng Rex Tillerson đã mở đường.
Ông tuyên bố Mỹ "sẵn sàng đàm phán bất cứ lúc nào" với Bắc Hàn mà không cần điều kiện", tuy rằng sau đó có phản biện từ Tòa Bạch Ốc nhưng dưới bất cứ thời tổng thống nào thì cũng vẫn có hai trường phái bồ câu và diều hâu ở ngay Tòa Bạch Ốc. Dù sao, chính ứng cử viên Trump đã nhiều lần nói sẵn sàng gặp ông Kim Jong-un. Ngày 15/12/2017 lại vừa có tin về cuộc đàm thoại giữa hai Tổng thống Trump và Putin để giải quyết vấn đề Bắc Hàn. Cuộc đàm thoại xảy ra vào thời điểm ông Moon Jae-in đi Trung Quốc thì chắc cũng không phải là ngẫu nhiên.
Khả năng đàm phán Mỹ-Triều
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionPhải chăng khi đã có tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, ông Kim Jong-un mới chịu đàm phán với Mỹ?
Nếu như Mỹ đã mở cửa cho đàm phán thì khủng hoảng hiện nay sẽ có thể được giảm nhiệt - ít nhất là tạm thời - bằng một lối ra để giữ thể diện cho cả hai bên. Đó là sẽ qua một trung gian để giúp điều đình.
Trung gian ấy thì không phải là Trung Quốc mà là Nga Xô. Nước này có rất nhiều ảnh hưởng đối với Bình Nhưỡng vì đã giúp Bắc Hàn phát triển nguyên tử ngay từ đầu (từ thời ông của ông Kim Jong-un như đã viện dẫn trên đây).
Theo Reuters thì ngày 8/12/2017, Thứ trưởng Ngoại giao Nga Igor Morgulov đã bình luận tại Berlin rằng:
"Chúng tôi có những đường dây liên lạc, qua đó chúng tôi đang đàm thoại, chúng tôi sẵn sàng dùng ảnh hưởng của mình đối với Bắc Hàn."
Nếu Nam Hàn ký được với Mỹ một hiệp định thì tiếp theo, Bắc và Nam Hàn có thể đàm phán để đi tới thống nhất. Trong bối cảnh này, cuộc viếng thăm Bắc Kinh hiện nay của Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in có thể có một mục đích thầm kín là để nhờ cậy Bắc Kinh làm trung gian.
Tuy nhiên, ông Moon cũng khó có thể thành công vì Trung Quốc sẽ đòi hỏi Nam Hàn hai điều kiện: ngừng diễn tập quân sự với Mỹ và ngừng phát triển hệ thống phòng không THAAD. Dù rằng Bắc Kinh đã cho biết là có thể đồng ý việc 'Nam Hàn không để cho Mỹ nới rộng THAAD thêm nữa' - có nghĩa là Trung Quốc không đòi hỏi Nam Hàn phải yêu cầu Mỹ gỡ bỏ hệ thống hiện hữu, nhưng ông Moon cũng khó có thể đáp ứng được yêu cầu của Tập Cận Bình.
Điều đình trên căn bản nào?
Đối với Mỹ, rất có thể ông Kim Jong-un sẽ đưa ra những đề nghị hòa bình giống như của cha ông (tháng 6/2000), và trước đó, của ông nội (vào tháng 4/1975) như trên đây, đó là tiến tới một 'Hiệp Ước Hòa Bình' (Peace Treaty) để thay thế cho Hiệp ước Đình chiến năm 1953. Về thực chất, nó sẽ bao gồm ba đòi hỏi:
Mỹ rút hết quân khỏi DMZ và trên lãnh thổ Nam Hàn;
Kết thúc tất cả sự can thiệp vào nội bộ của Đại Hàn (và ngày nay thì kể cả việc rút phòng không THAAD);
Chính phủ hiện hữu của Nam Hàn phải từ chức để giải quyết hòa bình (thay vì 'Lật đổ chế độ Park Chung-hee' như đề nghị 1975)
Tuy nhiên chỉ có hai điểm đầu là quan trọng, điều thứ ba có thể bỏ đi như là một nhượng bộ của Bắc Hàn.
Nếu ký được với Mỹ thì hai bên Bắc và Nam Hàn có thể đàm phán về thống nhất dựa trên giải pháp 'ba giai đoạn' mà cả hai bên đã đồng ý vào năm 2000 (nhắc tới trên đây), đó là:
Giai đoạn 1 - tăng cường hợp tác thông qua các tổ chức liên Triều Tiên - trong khi vẫn duy trì các hệ thống chính trị riêng của Bắc và Nam Hàn;
Giai đoạn 2 - thống nhất lãnh thổ với hai chính quyền tự trị tại hai khu vực; và
Giai đoạn 3 - thành lập một chính phủ trung ương.
Chúng tôi xin mở ngoặc nơi đây để ghi lại một sự tình cờ, đó là giải pháp này cũng chính là giải pháp chúng tôi đã đề nghị với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu năm 1971: ông đã đồng ý và đưa ra Hòa Đàm Paris - xem The Palace File, trang 10-12.
Tháng 6/2000, ông Kim Jong-Il, cha của ông Kim Jong-un đã đưa ra một lập trường hòa nhã đối với Mỹ - một lập trường rất có thể ông Kim Jong-un sẽ nhắc lại trước khi điều đình - đó là:
"Chúng tôi không có ý định coi Hoa Kỳ là kẻ thù vĩnh viễn. Chúng tôi hy vọng có thể bình thường hóa ngoại giao với Mỹ. Bang giao Mỹ-Triều sẽ được phát triển để phục vụ quyền lợi của nhân dân hai nước nếu Mỹ từ bỏ quan niệm lỗi thời của Chiến Tranh Lạnh là giải quyết vấn đề Triêu Tiên bằng sức mạnh, và tạo điều kiện cho hòa bình và thống nhất trên Bán Đảo Triều Tiên."
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionTranh tuyên truyền chống Mỹ của Bắc Triều Tiên thời chiến
Liệu Mỹ có chấp nhận rút quân hay không?
Điểm chính mà Bắc Hàn đòi hỏi là Mỹ phải rút quân. Nhưng liệu Mỹ có chấp nhận hay không? Thật là khó, vì Mỹ có những lý do rất vững chắc để đóng quân ở DMZ - qua thời đại của 11 tổng thống Hoa Kỳ (từ Eisenhower tới Trump), bất chấp là Cộng hòa hay Dân chủ, bất chấp những khó khăn đối nội hay đối ngoại của Mỹ. Bàn tới những lý do tại sao như vậy là đi ra ngoài phạm vi nhỏ hẹp của bài này.
Dù sao, trong bối cảnh hiện nay - và vì những lý do giới hạn cho giải pháp quân sự - cũng có thể là Mỹ sẽ đề nghị một giải pháp dung hòa: nếu Bắc Hàn đồng ý hủy bỏ chương trình nguyên tử thì Mỹ sẽ đưa ra một Lộ trình (Road Map) đi kèm theo với những điều kiện giám sát chặt chẽ.
Khả năng khác là Mỹ chỉ đồng ý:
Bỏ cấm vận hoàn toàn đối với Bắc Hàn;
Tạm thời ngưng tập trận với Nam Hàn để chờ xem hành động của Bắc Hàn ra sao sau Hiệp định;
Tiếp tục viện trợ kinh tế cho Bắc Hàn (tuy rằng đã nói là 'vô ích').
Chiến tranh và hòa bình
Dù điều đình hay không thì một sự xung đột kéo dài tới 67 năm cũng không dễ gì mà được giải quyết mau lẹ, nó đòi hỏi thời gian. Nhưng quan trọng là mọi bên phải cùng nhau đi bước đầu tiên. Và bước này có thể là đang xảy ra vì cả Mỹ, Bắc và Nam Hàn xem ra đều đang đi về cùng một hướng, đó là muốn hòa đàm. Các cường quốc từ Âu tới Á cũng đều sẵn sàng để hỗ trợ cho mục tiêu này.
Cái khó khăn là trong khoảng thời gian cần thiết để đi tới giải pháp cuối cùng, vẫn có cái nguy hiểm về sự tính lầm.
Ông Kim Jong-un có thể tính lầm giống như Nhật Hoàng Hirohito đã tính lầm khi tấn công Trân Châu Cảng (1941) hay TBT Liên Xô Nikita Khrushchev tính lầm khi mang tên lửa vào Cuba (1962).
Về phía Mỹ thì cũng có thể tính lầm về mục đích thực sự của một hành động quân sự nào đó của Bình Nhưỡng - khiến ta nhớ lại biến cố Vịnh Bắc Bộ - Tonkin Gulf Incident - hành động của Washington đã dựa trên thông tin tình báo sai lầm về biến cố ngày 4/8/1964.
Thêm nữa là cuộc chiến - dù là một cuộc chiến giới hạn - cũng có thể xảy ra vì một biến cố ngoài ý muốn, một sự rủi ro, thí dụ như khả năng tên lửa của Bắc Hàn chẳng may bắn vào một máy bay quân sự, nhân sự, hay tàu chiến Mỹ hay của đồng minh (như một số hãng hàng không dân sự thông báo thấy tên lửa Bắc Hàn bay vào khí quyển).
Người ta cho rằng Thế Chiến I vào đầu Thế kỷ 20 cũng đã nổ ra chỉ vì một sự kiện nhỏ: vụ ám sát một cặp hoàng thân Áo Franz Ferdinand vàp ngày 28/06/1914 trên đường phố ở Sarajevo đã châm ngòi thành đại chiến.
Vào dịp Lễ Giáng Sinh, lễ của hòa bình, ta cầu mong cho Thế Chiến 3 sẽ không xảy ra tại khu vực của Biển Hòa Bình - trên mặt Thái Bình Dương.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch VNCH từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016).