Tuesday, March 31, 2015

Lý Quang Diệu với thuyền nhân Việt Nam

Lý Quang Diệu với thuyền nhân Việt Nam

  • 30 tháng 3 2015
Ông Lý Quang Diệu
Ông Lý Quang Diệu làm Thủ tướng đầu tiên của Singapore với nhiệm kỳ từ 1959-1988.
Ông Lý Quang Diệu trong thời kỳ nắm quyền lãnh đạo ở Singapore trước đây đã từng theo đuổi một chính sách được cho là 'sắt đá' có lúc, có phần gây bất lợi cho một số thuyền nhân Việt Nam, những người đã từ bỏ đất nước trên những con thuyền trên Biển Đông, theo lời nhân chứng nói với BBC.
Tuy nhiên, cũng cần 'thông cảm' và 'công bằng' đối với ông Lý Quang Diệu vì ông không phải là lãnh đạo duy nhất ở Đông Nam Á đã nói 'không' với nhiều trường hợp thuyền nhân cần tìm chỗ 'đáp lên bờ' và 'tị nạn' khẩn cấp vì các lý do thiết yếu, vẫn theo lời nhân chứng.
Trao đổi với BBC hôm 28/3/2015, một nhân chứng trong chương trình người Việt tự cứu thuyền nhân trên Biển Đông, được biết tới là chương trình 'Máu chảy ruột mềm' những năm nửa cuối thuộc thập niên 1970, sau diễn biến 30/4 ở Sài Gòn, trước hết nói với BBC về cảm nghĩ của mình trước tin vị quốc phụ của Singapore vừa tạ thế.
"Tôi nghĩ là ông Lý Quang Diệu vừa qua đời, thì thế hệ sau này chắc là ai cũng ca ngợi ông ấy hết," Sư cô Chân Không, từ Đạo tràng Làng Mai, một cộng đồng Phật giáo Việt Nam, tại Tây Nam nước Pháp nói.
"Và tôi thấy gần như 99% ai cũng ca ngợi, dĩ nhiên trong những câu ca ngợi họ cũng nói là nhờ chính sách sắt đá, thì thôi, thì tôi muốn để cho qua, nhưng muốn hỏi một nhân chứng chân thực thì hồi năm 1976, 1977, lúc đó thuyền nhân (Việt Nam) đang bị cư xử rất tàn tệ ở Singapore.
"Lúc đó tôi đang ở Singapore để trong chương trình Đại hội Tôn giáo Thế giới vì Hòa Bình (World Conference on Religion and Peace) họ mời Sư ông (Thích Nhất Hạnh) làm giám đốc chương trình 'Máu chảy, Ruột mềm', và Sư ông mời tôi qua làm phụ tá, với 8 người đệ tử của Sư ông, cư sỹ nữa, thì đi qua hết để làm.
"Lúc đó, báo chí đăng tin có một tàu Nhật vớt 99 thuyền nhân ghé tạm Singapore để trao hàng và đi các nước khác để giao hàng nữa, thì ở đó (Singapore) họ không cho vô và họ bắt tàu Nhật đó phải đóng thuế 1 triệu USD thì họ mới cho tạm để ghé giao hàng rồi mới đi, thì khi mà tàu đi mà đem đủ 99 thuyền nhân đó rồi, thì họ mới cho đi.
"Tôi nhớ chung chung là một thuyền nhân được một người đánh cá ở Singapore mà vớt và cho vào bờ, thì sẽ bị phạt 5.000 đô-la Singapore, và một người đánh cá mà phạt năm ngàn thì sống làm sao nổi?"

'Những người có lòng'

Nhân chứng này tường thuật tiếp về cách thức mà những người muốn cứu giúp các thuyền nhân Việt Nam tới Singapore đã phải sử dụng ra sao, kể cả liên kết với 'giới ngoại giao' của 'một nước thứ ba' để đối phó với luật pháp và chính sách nhập cư của đảo quốc Đông Nam Á dưới thời ông Lý Quang Diệu.
Lý Quang Diệu
Ông Lý Quang Diệu được coi là bậc 'quốc phụ', là người có công kiến thiết Singapore hậu thuộc địa.
"Nhưng mà trong khi đó, cũng có những người đánh cá có lòng, và có những người Phật tử Việt Nam có lòng, mấy vị đó là vợ của những người Hoa Kỳ, hay người của các nước khác, là vợ của những vị đó, những bà đó có một ít tiền vì chồng cũng khá giả, thành ra mới lại nói với mấy người đánh cá Singapore, nói là anh mà vớt được một thuyền nhân, thì tôi cho anh 100 đô-la, rồi anh báo tin âm thầm cho chúng tôi biết," Sư cô Chân Không, người đã có hẳn một cuốn sách với tựa đề 'Con đường mở rộng' trong đó có một chương nói về thuyền nhân Việt Nam ở Singapore, nói tiếp với BBC.
"Rồi chúng tôi mới âm thầm lấy xe, vì họ khá giả, họ lấy xe nhà, mà chở tới tòa Đại sứ Pháp, thì ở trong Tòa đại sứ Pháp lúc bấy giờ cũng có một người thư ký rất 'chịu chơi', lén vô mở cửa cho thuyền nhân. Mỗi lần vớt được 3 thuyền nhân, 5 thuyền nhân, thì mấy bà ấy phải hùn tiền nhau, mỗi bà 100 đô-la, để cho 500 đô-la hay 300 đô-la, rồi chở vô tòa Đại sứ Pháp rồi khóa cửa lại như là mấy người này nhảy vào hay sao 'không biết'.
"Sáng hôm sau, Tòa Đại sứ mở cửa nói 'Có ba tên nhập cảnh bất hợp pháp, thì họ phải báo tin cho Singapore biết, 'có ba người này (chúng) tôi không biết, toàn nói tiếng Việt không, (họ) nói chúng tôi thuyền nhân, 'chúng tôi mò từ biển, tụi tôi đi bộ lên'.
"Ông Đại sứ Pháp là một người rất có lòng, lúc đó, ông tên là Jacques Gasseau, ông khai báo với cảnh sát Singapore là có 3 người nhập cư bất hợp pháp ở trong lãnh thổ Pháp, thì chúng tôi sẽ làm giấy tờ để cho mấy người bay được đi Pháp."
Theo nhân chứng này, nhiều lần các nhà vận động Việt Nam đã tiến hành các cuộc họp báo ở quốc tế hay khu vực, vận động công khai tới chính quyền của ông Lý Quang Diệu, nhưng dường như nhà lãnh đạo này đã trong suốt thời gian dài không thay đổi chính sách với thuyền nhân Việt Nam, ngược lại được cho là còn 'trục xuất' nhiều nhà hoạt động trong các chương trình 'Cứu giúp thuyền nhân', trong đó có Thiền sư Nhất Hạnh và các trợ lý.

'Đẩy ngược ra biển'

Cũng hôm 28/3/2015, một đại diện của Tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam xác nhận với BBC rằng Singapore trong thời gian lãnh đạo của ông Lý Quang Diệu đã có các chính sách 'push back policy', tức là đẩy lại ra biển những người thuyền nhân tị nạn từ Việt Nam từ cuối thập niên 1970's, kể cả những trường hợp được cho là cần 'hỗ trợ nhân đạo khẩn cấp', mà chỉ nhận những hồ sơ tị nạn nào đã được các nước thứ ba tiếp nhận về nguyên tắc cho tị nạn 'xong xuôi'.
Hôm thứ Bảy, ông Trần Đông, một người chuyên tìm hiểu về thuyền nhân trên Biển Đông từ tổ chức này, nói với BBC:
"Vấn đề đó cũng là phản ánh sự thật, nhưng không riêng gì ở Singapore có chính sách gọi là 'push back policy' đẩy ngược tàu thuyển ra biển, Malaysia cũng sử dụng như vậy, Thái Lan cũng sử dụng như vậy, chỉ có hai quốc gia không áp dụng, đó là Indonesia và Philippines. Cho nên đối với Indonesia và Philippines thì thuyền nhân tới là họ nhận hết."
Theo ông Đông, Singapore cũng có một số nỗ lực nhất định, tuy nhiên cũng có những 'giới hạn' về chính sách.
Ông nói: "Singapore cũng đã có những nỗ lực tiếp nhận thuyền nhân, thế nhưng giới hạn của Singapore là trại tị nạn ở tại Singapore chỉ dành cho những thuyền nhân được các quốc gia khác nhận cho đi định cư.
"Thí dụ nếu một tàu quốc tế nào đó vớt thuyền nhân, quốc gia đó nhận cho những người ở trên tàu đi định cư, thì như vậy Singapore tiếp nhận cho họ ở tạm tại Singapore trong một khoảng thời gian ngắn vài ba tháng, để làm thủ tục đi định cư."
Theo người đã nhiều năm sưu tầm tư liệu về thuyền nhân Việt Nam trên Biển Đông, việc Đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam trong nhiều lần tiếp xúc với ông Lý Quang Diệu đã không bao giờ nhắc tới chính sách này của ông và Singapore dưới thời mà ông cầm quyền là một điều 'dễ hiểu' trong ngoại giao.
Thuyền nhân Việt Nam
Các con số thống kê còn chưa thống nhất, khi có những gợi ý cho rằng có thể từ vài chục ngàn tới cả trăm ngàn thuyền nhân từ VN đã có thể bị tai nạn và tử nạn trên Biển Đông.
Ông Trần Đông nói: "Về vấn đề không chất vấn thảm cảnh thuyền nhân đối với một lãnh tụ của một quốc gia khác, tôi nghĩ rằng vấn đề đó cũng thường xảy ra, người ta cũng không muốn vì quyền lợi quốc gia, vì vấn đề bang giao, cho nên người ta cũng không muốn đưa một vấn đề khó xử hoặc là khó trả lời đối với lãnh tụ của một quốc gia là quốc khách của mình được mời đến.
"Cho nên tôi nghĩ là người ta không đặt ra các vấn đề đó, thì những vấn đề đó cũng là sự thường thôi."

'Như một bài toán'

Hôm thứ Bảy, nhân chứng từ cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Pháp, Làng Mai, giải thích với BBC vì sao chính quyền của ông Lý Quang Diệu đã không chiếu cố những trường hợp, dù được cho là 'chỉ một, hay hai cá nhân' đơn lẻ trong số các thuyền nhân là 'trẻ em, con nít, phụ nữ, hay người già, người bị bệnh nặng' để họ được lên bờ vào Singapore tiếp nhận 'hỗ trợ khẩn cấp', mà trái lại, lại bị 'đẩy ngược ra biển', mặc dù nhiều cuộc họp báo, vận động khi đó đã được cho là chuyển thông tin tới quốc tế và chính quyền của ông bằng nhiều cách thức.
Sư cô Chân Không, trợ lý của Thiền sư Nhất Hạnh trong chương trình cứu giúp thuyền nhân Việt Nam trên Biển Đông, nói:
"Tôi nghĩ là ông Lý Quang Diệu chỉ nghĩ trong đầu như một bài toán thôi. Ông không có cơ hội để thấy được những đứa con nít mà thoi thóp ở trong tay mẹ mà không còn nước, không có nước, không thức ăn, đang đói, đang khát.
"Ông chỉ thấy việc của Singapore như một bài toán, một nước mà không có tài nguyên thiên nhiên, thì chỉ có một cách là đem tiền vô càng nhiều, càng tốt, chỉ nhận những công dân có tiền nhiều, đầu tư nhiều, vậy thôi.
"Thành ra ông ấy không có thì giờ tiếp xúc với sự thật... Ông Lý Quang Diệu, ông ấy tiếp xúc với những bài toán kinh tế của nước ông, một đất nước không có tài nguyên gì hết, thì ông ấy phải làm việc trên cái lý thuyết đó thôi."
Nhân chứng từ Pháp còn cho hay trong các thời kỳ cao điểm của 'thuyền nhân Việt Nam' trên Biển Đông và Đông Nam Á, Singapore vừa áp dụng chính sách đẩy thuyền nhân 'ngược trở ra biển', vừa được cho là 'mở cửa, trải thảm' đỏ tiếp các công dân quốc tế, khu vực vào Singapore sống để có 'thẻ xanh', 'vô dân', 'nhập quốc tịch', nếu có tài lực từ '300 nghìn tới 500 nghìn Mỹ Kim trở lên'.
Bình luận về điều được cho là 'chính sách hai mặt' về nhập cư này của chính quyền của ông Lý Quang Diệu thời gian đó, ông Trần Đông từ Australia nói:
"Khi người ta quyết định một chính sách, thì người ta đặt quyền lợi quốc gia của người ta ở trên hết.
"Và khi một điều xảy ra mà trở thành một gánh nặng cho quốc gia của người ta và người ta khó có thể kham nổi, thì người ta có quyền từ chối," nhà quan sát từ Tổ chức Văn khố Thuyền nhân Việt Nam nói với BBC.

Tin liên quan

Một chính khách lớn và một người thầy xấu

Một chính khách lớn và một người thầy xấu

Mở đầu bài viết tưởng niệm Lý Quang Diệu đăng trên báo The Washington Post, Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Mỹ, người được xem là tổng công trình sư về chính sách đối ngoại của Mỹ thời chiến tranh lạnh, nhận định: “Lý Quang Diệu là một vĩ nhân” (Lee Kuan Yew is a great man). Cựu Thủ tướng Anh, Tony Blair, cho Lý Quang Diệu là lãnh tụ sắc sảo nhất mà ông từng được gặp (the smartest leader I ever met). Tổng thống Mỹ Barack Obama cho Lý Quang Diệu là một “người khổng lồ đích thực của lịch sử”, “một hình ảnh truyền thuyết của châu Á trong thế kỷ 20 và 21”.
Những lời khen ấy xuất phát từ ba sự kiện: Thứ nhất, từ góc độ cá nhân, Lý Quang Diệu bao giờ cũng chứng tỏ là một con người thông minh và sâu sắc đủ để chinh phục sự ngưỡng mộ của những người gặp ông và trao đổi với ông. Thứ hai, với tư cách một lãnh tụ, ông đã chứng tỏ tài năng của mình trong việc biến Singapore từ một hòn đảo nhỏ, nghèo nàn và lạc hậu, một cựu thuộc địa của Anh và là một trong những địa phương khiêm tốn trong Liên bang Malaysia, trở thành một quốc gia tiên tiến và giàu có, có thu nhập trên đầu người cao hơn hẳn Malaysia và cả nước Anh. Thứ ba, với tư cách một chính khách, Lý Quang Diệu đã có những ảnh hưởng sâu rộng trên phạm vi thế giới. Mặc dù người ta không gắn sau tên ông chữ “ism”, kiểu chủ nghĩa Lý Quang Diệu (Lee-ism) như người ta từng làm với Reaganism hay Thatcherism, nhưng giới nghiên cứu chính trị đều đồng ý Lý Quang Diệu có một quan niệm riêng, một chiến lược riêng trong việc xây dựng và phát triển đất nước khác hẳn các chính khách khác. Chiến lược ấy được rất nhiều nhà lãnh tụ rải rác trên thế giới ngưỡng mộ và bắt chước.
Với những ảnh hưởng ấy, Lý Quang Diệu được xem là một bậc thầy có tầm quốc tế trong nửa sau thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21. Tư cách bậc thầy ấy thể hiện qua hai khía cạnh chính: Một là những chính sách cụ thể mà Lý Quang Diệu sử dụng một cách hữu hiệu để xây dựng Singapore thành một cường quốc và hai là những chiến lược ông sử dụng để xây dựng bộ máy cai trị tại đất nước của ông. Ở khía cạnh thứ nhất, nói theo lời của Thủ tướng Anh David Cameron, Singapore là một trong những “câu chuyện thành công vĩ đại” (one of the great success stories) của thời hiện đại. Ở khía cạnh thứ hai, nói theo lời Tổng thống Obama, “không ít lãnh tụ thuộc thế hệ này cũng như các thế hệ trước xin những lời khuyên của ông” trong vấn đề cai trị.
Ở cả hai khía cạnh vừa nêu, bậc thầy Lý Quang Diệu để lại những di sản vừa tốt vừa xấu.
Tốt ở nhiều điểm: Ông mang lại niềm tự tin cho nhiều lãnh tụ về quá trình xây dựng đất nước của họ sau những thời gian dài chiến tranh hoặc lệ thuộc; ông khuyến khích mọi người quan tâm đến lãnh vực giáo dục cũng như chính sách chiêu hiền đãi sĩ trong quá trình hiện đại hoá đất nước; ông nêu bật lên tầm quan trọng không thể thay thế được của một nền quản trị minh bạch và hiệu quả; ông nhấn mạnh đến việc bài trừ tham nhũng; ông dạy người ta tinh thần thực tế và thực dụng, không bám víu một cách mù quáng và nô lệ vào các lý thuyết hay các thứ chủ nghĩa, đặc biệt chủ nghĩa cộng sản, v.v…
Nhưng di sản xấu của Lý Quang Diệu cũng không ít.
Thứ nhất, ông tạo nên một mô hình phát triển nguy hiểm.
Trước, hầu như mọi nhà nghiên cứu đều cho dân chủ là một trong những tiền đề tiên quyết của phát triển. Sự thành công của chủ nghĩa tư bản, ở lãnh vực kinh tế cũng như chính trị, cao hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội vốn cuối cùng bị sụp đổ vào đầu thập niên 1990, là ở chỗ: chủ nghĩa tư bản có tự do hơn. Tính chất tự do và dân chủ của chủ nghĩa tư bản không phải chỉ xuất phát từ những nguyên tắc nhân quyền chung chung mà còn xuất phát từ một thực tế: chúng khuyến khích óc sáng tạo và tinh thần cạnh tranh lành mạnh của mọi người, một nhân tố quan trọng để đất nước càng ngày càng tân tiến và thịnh vượng.
Sau, với sự thành công của Singapore, người ta thấy có một khả năng lựa chọn khác: một đất nước có thể tiến bộ vượt bậc mà không cần phải dân chủ hoá. Người ta gọi đó là một nền “độc tài mềm” (soft dictatorship) hoặc “chủ nghĩa tư bản chuyên chế” (authoritarian capitalism) mà Singapore là một tấm gương tiêu biểu nhất.
Điều đó giải thích tại sao lãnh tụ của rất nhiều quốc gia độc tài tìm đến với Lý Quang Diệu, xem Lý Quang Diệu như một cố vấn đáng tin cậy. Một trong những người ấy là Đặng Tiểu Bình. Cuối thập niên 1970, sau cái chết của Mao Trạch Đông và sau khi đánh dẹp “bè lũ 4 tên”, Đặng Tiểu Bình xem Singapore như một mẫu mực ông noi theo để vừa có thể hiện đại hoá Trung Quốc vừa có thể giữ được tính chất độc tôn của đảng cộng sản như điều Lý Quang Diệu đã làm với đảng Hành Động Nhân Dân của ông. Để học bài học của Lý Quang Diệu, Đặng Tiểu Bình đã gửi hàng chục ngàn cán bộ các cấp sang Singapore học tập. Ông cũng mời Lý Quang Diệu sang thăm Trung Quốc cả hang chục lần. Ngày Lý Quang Diệu qua đời, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố khen ông là một “chính khách có ảnh hưởng độc nhất ở châu Á và là một nhà chiến lược kết tinh được những giá trị đông phương và một viễn kiến mang tính quốc tế”. Ảnh hưởng của Lý Quang Diệu trên Trung Quốc lớn đến độ có người cho ông chính là “cha đẻ của Trung Quốc hiện đại” (“Lee Kuan Yew: The Father of Modern China?”)
Ngoài Đặng Tiểu Bình và các lãnh tụ khác ở Trung Quốc, Lý Quang Diệu còn có một số người khác rất ngưỡng mộ ông và muốn noi theo gương của ông, trong số đó, đáng kể đầu tiên là Vladimir Putin, người đã tặng cho Lý Quang Diệu một huân chương danh dự để bày tỏ sự tôn kính đối với những đóng góp lớn lao của Lý Quang Diệu trên phạm vi thế giới. Ở Georgia, Mikhail Saakashvili cũng xem Lý Quang Diệu như một thần tượng, sách của Lý Quang Diệu được dịch, in, lưu hành và đọc như những cuốn kinh thánh. Ở Ukraine, Viktor Yanukovych cũng rất sùng bái Lý Quang Diệu và xem Singapore như một mô hình để xây dựng đất nước của ông.
Nói một cách vắn tắt, ở rất nhiều nơi trên thế giới, từ Trung Quốc đến Nga và một số quốc gia cựu cộng sản khác đều xem Singapore như một bài học lớn, ở đó, người ta, một mặt, có thể phát triển, mặt khác, vẫn tiếp tục duy trì một nền chính trị hà khắc, trên sự thống trị của một đảng duy nhất.
Di sản nguy hiểm thứ hai của Lý Quang Diệu là ông tạo cho người ta cái ảo tưởng là có những nền văn hoá thích hợp với dân chủ và có những nền văn hoá thì không. Nền tảng quan trọng nhất trong lý thuyết về chính trị của Lý Quang Diệu là quan niệm về các giá trị châu Á (Asian values) vốn, theo ông, khác hẳn với văn hoá Tây phương. Nếu ở Tây phương, người ta đề cao chủ nghĩa cá nhân thì ở châu Á, người ta đề cao tinh thần tập thể; ở Tây phương, người ta khuyến khích óc cạnh tranh; ở châu Á, người ta tìm kiếm sự đồng thuận. Với những khác biệt ấy, ở Tây phương người ta cần tự do và dân chủ, ở châu Á, người ta có thể hài lòng với một chế độ chính trị nhắm đến việc xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và giàu có.
Quan niệm này của Lý Quang Diệu giúp các chế độc độc tài hoặc bán độc tài ở châu Á cũng như ở Đông Âu biện hộ cho các chính sách độc đoán của họ. Nhiều học giả cho quan niệm của Lý Quang Diệu và huyền thoại Singapore đã có ảnh hưởng tai hại đến rất nhiều quốc gia trên thế giới, ở đó, chế độ độc tài có thể tiếp tục độc tài hoặc chế độ vừa mới thoát khỏi độc tài cộng sản lại quay sang một chế độ độc tài kiểu mới.
Nói Lý Quang Diệu là một chính khách giỏi nhưng lại là một người thầy xấu là vậy.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nguyễn Hưng Quốc

Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.