Tranh
Chấp Biển Đông
Chủ
Trương & Kỹ Thuật: Nguyễn Mạnh Trí
Chào Mừng
Quý Khách
TRANH
CHẤP BIỂN ĐÔNG
VIỆT NAM:
CHIẾN LƯỢC ĐỀ NGHỊ
Trong những năm cuối cùng của thập niên 60, HK đã để lộ ý
định muốn chấm dứt cuộc chiến VN và quan hệ chiến lược giữa Hoa Kỳ-Liên
Sô-Trung Quốc bước vào một ngả rẽ. Liên Sô để rỏ ý định muốn bành trướng ảnh
hưởng của mình trong vùng Đông Nam Á mà miền Bắc là đồng minh đắc lực nhất. HK
bắt đầu chính sách hòa giải tạm thời với TQ để đối đầu với Liên Sô. TQ đã để lộ
ý định không muốn thấy một nước VN thống nhất vì dù rằng dưới chế độ nào, một
nước VN thống nhất sẽ là chướng ngại vật đầu tiên ngăn cản âm mưu bành trướng
xuống phía Nam của mình. Đầu năm 1974, TQ chiếm các đảo trong nhóm Nguyệt Thiềm
trong quần đảo Hoàng Sa do Hải Quân VNCH trấn giữ. HK đã làm ngơ trước hành
động của TQ.
Sau năm 1975, TQ bắt đầu tăng cường sự hiện diện của mình
tại Campuchia. Chỉ trong 4 năm, TQ đã tăng cường số cố vấn quân sự lên đến
20,000 người. VN, với sự giúp đỡ của Liên Sô, đã quyết định đưa quân vào
Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot dù phải trả một giá rất đắt với sự lên
án và chế tài của cộng đồng quốc tế trong gần cả thập niên.
Trận chiến biên giới giữa TQ-VN xảy ra sau đó với
cao điểm năm 1979 và tiếp tục kéo dài trong những năm kế tiếp
trên bình diện nhỏ hơn. Sự rút lui của HK đã để lại một
khoảng trống trong vùng Đông Nam Á. Với sự đầu tư ồ ạt của các quốc gia Tây
Phương, lợi dụng giá nhân công rẻ mạt, TQ bắt đầu kế hoạch tăng trưởng kinh tế
và canh tân quân sự của mình. Năm 1988, TQ chiếm 6 bãi đá ngầm thuộc nhóm đá
Chữ Thập (Fiery Cross Reef) phía Tây Trường Sa sau một cuộc giao
tranh ngắn ngủi với hải quân Cộng Sản VN. Sự sụp đổ của Liên Bang Sô Viết và
việc HK sa lầy trong 2 cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan càng giúp TQ
rảnh tay trong chiến lược phát triển và bành trướng về phía Nam của mình. Năm
1995, TQ chiếm bãi đá ngầm thuộc nhóm đá Vành Khăn (Mischief Reef) phía đông
Trường Sa của Philippines. Cuối năm 2008, chính quyền của Tổng Thống Bush
đã trả giá cho những sự sai lầm trong 8 năm cầm quyền của mình bằng sự thất bại
rõ ràng trước đảng Dân Chủ do Tổng Thống Obama lãnh đạo.
Năm 2009, TQ bắt đầu chọn một thái độ mạnh bạo và hung
hăng hơn trong vùng Biển Đông vừa để chứng tỏ sức mạnh của mình cũng như thăm
dò phản ứng của HK. Sự rút lui một phần tại Iraq để tập trung hoạt động tại
Afghanistan đã giúp HK có thì giờ giải quyết các điểm nóng trên thế giới. Chính
phủ Obama đang tỏ ra vừa cứng rắn vừa thận trọng trong vấn đề liên hệ với TQ.
Cuộc điều trần mới đây tại Thượng Viện Hoa Kỳ và chuyến viếng thăm của Ngoại
Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton tại Thái Lan đã cho thấy sự chuyển hướng trong
chính sách ngoại giao và đánh dấu sự trở lại của HK trong vùng Đông Nam Á.
CHƯƠNG I: NHẬN ĐỊNH
Bài này dựa theo sự hiểu biết cá nhân và những điều ghi
nhận được khi tôi làm việc ở Hà Nội trong hai năm 1996-1997. Trong thời gian
này, dù rằng ảnh hưởng của khối thân TQ tại Hà Nội còn khá mạnh nhưng HK và VN
cũng đã đạt được những bước đầu trong quan hệ chiến lược giữa hai nước. HK, với
những kinh nghiệm học hỏi được trong cuộc chiến VN, đã rất thận trọng và tế nhị
trong mối liên hệ với VN. HK đã đề nghị một lộ trình để tùy VN chọn lựa. Trong
nhiều trường hợp, HK đã để cho VN chủ động trong việc đi những bước kế tiếp.
Những điều này được xác nhận bằng các sự kiện tuần tự xảy ra trong những năm
sau đó. Với sự hiểu biết hạn hẹp cá nhân, chúng tôi không ở trong vị thế để
biết được chi tiết những thỏa thuận chiến lược giữa VN và HK nhưng những gì đã
và đang xảy ra cho thấy âm mưu bành trướng của TQ cũng như nỗ lực của VN trong
cố gắng bảo vệ quyền lợi chiến lược và sự sống còn của mình.
TQ đang phát triển toàn diện về mọi lãnh vực bất chấp đến
ảnh hưởng và sự tương quan đến các quốc gia trong vùng (quân sự ở Biển Đông,
các đập trên sông Cửu Long v.v..) cũng như các quốc gia trong vùng Đông và Nam
Á. HK và các quốc gia trong vùng không thể ngăn cản TQ làm những điều
này. Điều còn lại là các nước này có biện pháp đối trọng như thế nào.
CHƯƠNG II: CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẤP
BÁCH CỦA VIỆT NAM
CHIẾN
LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC
TQ, với dân số 1 tỷ rưỡi người và nguồn lợi nhuận khổng
lồ như là trung tâm sản xuất hàng hóa cho cả thế giới, đã không giấu giếm ý
định của họ để trở thành cường quốc số 1 tại Á Châu và trong tương lai gần, có
thể cạnh tranh ngang ngửa với HK. Trong nỗ lực đó, TQ đã canh tân và phát triển
quân lực của mình, nhất là Hải Quân với tốc độ chóng mặt. Ngân sách quốc phòng
năm 2010 của TQ khoảng 78 tỷ Mỹ Kim nhưng thực tế có thể gấp 2, 3 lần. Những
diễn biến trong thời gian gần đây cho thấy Biển Ðông đang vượt qua vấn đề Ðài
Loan, Tây Tạng và Tân Cương để trở thành ưu tiên số một của Trung Quốc. Chiến
lược biển Đông của TQ có thể tóm tắt trong những lãnh vực:
•Vẻ lại
bản đồ “lưỡi bò” trong đó mọi khu vực của Biển Đông đều trực thuộc TQ. Áp đặt
những luật lệ trong những khu vực mà họ cho là thuộc chủ quyền của họ. Thách
thức HK để xác nhận chủ quyền của mình. Hai vụ xảy ra với tàu Impeccable và
John McCain của HK đã nói lên chủ tâm của TQ. Tháng 7-2010, hãng tin Nhật
Bản Kyodo xác nhận Trung Quốc đã chính thức thông báo với Hoa Kỳ
rằng Biển Đông đã trở thành một trong các "quan tâm chủ
chốt" của nước này, bên cạnh Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương.
•Phát
triển nhanh Hạm Đội Nam Hải, nhất là lực lượng tàu ngầm để có thể đối đầu với
Hải Quân HK và các quốc gia trong vùng. Căn cứ hải quân Tam Á trên đảo Hải Nam
là điểm xuất phát của hạm đội này. Mục đích của TQ là phá vỡ các chốt chặn trên
đường tiến ra Thái Bình Dương của hạm đội TQ.
•Dùng sự
hiện diện đông đảo của các lực lượng Hải Quân và Tuần Duyên tại đảo Hải Nam và
Hoàng Sa để dọa nạt, sách nhiễu, bắt giữ và tông chìm các tàu đánh cá Việt Nam
hoạt động trong khu vực thuộc chủ quyền Việt Nam. Nếu không có phản ứng quyết
liệt từ các quốc gia liên hệ, chiến thuật này cũng sẽ được áp dụng tại Trường
Sa. Trung Quốc đang cấp tốc hoàn thành hải đoàn đặc nhiệm Hàng Không Mẫu Hạm mà
mục tiêu đầu tiên chắc chắn là các vị trí đóng quân của Việt Nam tại
Trường Sa cũng như các dàn khoan trên thềm lục địa phía Ðông Nam Việt Nam.
•Dùng áp
lực kinh tế để ngăn cản không cho Hoa Kỳ, Anh Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản hợp tác
với VN trong việc khai thác dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam. Việc áp lực 3
công ty BP của Anh, ONGC của Ấn Độ và ExxonMobil của HK trong thời gian vừa qua
đã nói lên ý định của họ.
•Dùng
chiến thuật xé lẻ, hăm dọa các quốc gia ASEAN để lấn chiếm khu vực Biển Ðông
Bản đồ
“lưỡi bò” của Trung Quốc.
NHỮNG VẤN
ĐỀ CẤP BÁCH CỦA VIỆT NAM
•Quốc tế
hóa và đa phương hóa vấn đề Biển Ðông. Việc VN nộp hồ sơ chung với Malaysia
trong thời gian gần đây là một hành động khôn khéo vì TQ nhiều lần chỉ muốn đàm
phán song phương và luôn luôn tránh đàm phán đa phương trong khu vực. Đưa vấn
đề lãnh hải ra tòa án quốc tế cũng là một sự lựa chọn cần thiết.
•Yêu cầu
HK và các quốc gia liên hệ tỏ thái độ rõ ràng trong việc tôn trọng chủ quyền và
sự toàn vẹn lãnh thổ của VN cũng như các công ước Quốc Tế. Hải quân HK
cũng như các nước khác trong vùng như Nga Sô, Nhật Bản, Đại Hàn, Ấn Độ v.v..
cần chứng tỏ cho TQ thấy rằng vùng ranh giới “lưỡi bò” không có tính cách pháp
lý.
•Cố gắng
tập trung các tàu đánh cá VN lại với nhau để có thể dễ dàng nhận dạng các tàu
lạ và giúp đỡ lẫn nhau. Việc HK gởi chiến hạm đến các vùng có ngư dân VN đang
hoạt động cũng là điều cần nghĩ đến.
•Hợp tác
chiến lược về dầu khí với các quốc gia hay công ty không bị áp lực với TQ. VN
có thể thỏa thuận với Nga Sô về vấn đề khai thác dầu khí. Nga Sô không có những
quyền lợi đầu tư tại TQ lại là nguồn cung cấp dầu khí và vũ khí mà TQ
đang cần đến, chắc chắn ít bị áp lực hơn các công ty Tây Phương.
•Thiết lập
quan hệ đối tác chiến lược với các quốc gia Đồng Minh như Nga Sô, Nhật Bản, Ấn
Độ, Đại Hàn v.v.. Quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ là mục tiêu tối hậu vào
thời điểm thích hợp.
•Tăng
cường việc phòng thủ tại Trường Sa cũng như các dàn khoan trên thềm lục địa
phía Ðông Nam Việt Nam để đề phòng một cuộc hành quân đổ bộ có thể xảy ra khi
Trung Quốc cảm thấy họ có thể thi hành ý định của mình mà không gặp phải phản
ứng của các cường quốc trong vùng.
Trong năm 2011, Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực về phương
diện ngoại giao, kinh tế và quốc phòng để cố gắng giải quyết vấn đề Biển Ðông:
(1) Đã tìm cách công khai hóa và đa phương hóa vấn đề
Biển Đông. Dùng các cuộc hội thảo và các diễn đàn đa phương để tìm kiếm giải
pháp hòa bình.
(2) Ðã tìm những thế liên minh để đối trọng với Trung
Quốc. Tính đến cuối năm 2011, Việt Nam đã ký quan hệ hợp tác chiến lược với 8
quốc gia mà Anh Quốc là nước mới nhất. Việt Nam đang thương thuyết
với Hoa Kỳ để “định rõ điều khoản quan hệ đối tác chiến lược giữa
hai nước”.
(3) Tăng cường khả năng phòng thủ bằng các chuyến viếng
thăm và một loạt thương vụ mua bán vũ khí với Nga Sô, Ấn Ðộ, Nhật Bản, Ðại Hàn
và Do Thái.
Qua năm 2013, những điểm mà Việt Nam cần chú ý theo dõi
để biết là tình hình Biển Đông biến chuyển tích cực hay là tiêu cực:
(1) Theo dõi những chuyển động trong chính sách của Mỹ để
chung quyết quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.
(2) Chặc chẻ theo dõi xem thái độ của Trung Quốc để có
những hành động thích hợp.
(3) Xem khả năng đoàn kết của ASEAN và tiến bộ trong việc
soạn thảo luật ứng xử ở Biển Đông (COC: Code of Conduct).
TÀI
LIỆU THAM KHẢO (XXX-MMDDYY-XXX-TQ-XXXX)
2013
1. ITN-011613-VN-TQ-Suc manh cua Viet
Nam.doc: Các bài viết về sức mạnh của Việt Nam.
2012
1. RFI-010311-VN-TQ-Dan VN lac quan.doc: Thăm
dò do viện BVA của Pháp thực hiện cuối năm 2010 tại hơn 50 quốc gia, đứng đầu
nhóm 10 nước lạc quan nhất thế giới là Việt Nam.
2. RFA-033011-VN-TQ-Nghien cuu Bien
Dong.doc: Các bản tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu Biển Ðông.
3. ITN-060511-VN-TQ-Bao ve Bien Dong.doc:
Các bài viết về phương thức bảo vệ Biển Ðông.
4. ITN-082712-VN-TQ-Suc manh cua Viet
Nam.doc: Các bài viết về sức mạnh của Việt Nam.
CHƯƠNG III: KINH TẾ & KỸ THUẬT & MÔI TRƯỜNG
•Đầu tư: Trung
Quốc, sau hơn 40 năm phát triển không ngừng, đã trở thành cường quốc trên thế
giới. Mức sống của dân chúng TQ đã đạt được mức độ trung bình nhưng cũng vì vậy
mà tính cách cạnh tranh về giá nhân công rẽ so với các quốc gia Á Châu đã giảm
đi. Sau vụ khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, Hoa Kỳ, Nhật Bản và các quốc
gia Liên Âu có khuynh hướng chuyển đầu tư từ TQ qua các nước Á Châu khác hay
chuyển một số ngành sản xuất trở về nội địa. VN nên nhân cơ hội này, tiếp tục
cải tiến hạ tầng cơ sở cũng như hành chánh và luật pháp để giảm nạn tham nhũng,
tạo môi trường thông thoáng để hấp dẫn thêm đầu tư.
•Tiếp tục
phát triển các lãnh vực kinh tế mũi nhọn (nông nghiệp, ngư nghiệp, dầu khí,
đóng tàu v.v..). Việt Nam cần để ý thêm các khía cạnh sau:
-Phát
triển bền vững khu vực hạ lưu sông Cửu Long. Để đối trọng với TQ xây hàng loạt
các đập thủy điện trên vùng thược lưu sông Cửu Long, VN cần phối hợp với
Campuchia, kêu gọi sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, Nhật Bản, các quốc gia giàu có vùng
Trung Đông để nạo vét và trồng cây xung quanh biển Hồ để tăng năng lượng sản
xuất lúa gạo bán lại cho vùng Trung Đông.
-Học hỏi
kế hoạch đê điều của Hòa Lan để chống ngập mặn dọc theo vùng duyên hải đồng
bằng sông Cửu Long.
-Nâng cấp
xa lộ xuyên Trường Sơn cũng như hành lang kinh tế Đông-Tây từ miền Đông Bắc
Thái Lan, qua Lào và Đà Nẳng để giúp phát triển miền Trung.
-Dự trù
vào 2015 kỹ nghệ đóng tàu của VN sẽ đứng thứ 5 trên thế giới sau Hoa Kỳ, Liên
Âu, Nhật Bản, Đại Hàn, tập trung vào lãnh vực đóng tàu hạng nhỏ và trung. Những
kinh nghiệm về đóng thương thuyền cũng có thể áp dụng vào việc đóng các chiến
hạm.
-Phát
triển kỹ nghệ quốc phòng cũng phải tiến hành song song với các ngành khác. Cố
gắng này nên tiến hành theo từng giai đoàn phối hợp với các đại công ty của Hoa
Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản và Ðại Hàn. Dự án chuẩn bị xây dựng khu công nghiệp
hàng không tại thành phố Đà Nẵng của tập đoàn Hàng không Vũ trụ và
Phòng thủ châu Âu (EADS) cùng các công ty Airbus và Korea Aerospace
Industries vào tháng 6-2010 là một trong những bước đầu cần thiết.
•Cố gắng
giảm mức chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn để tạo sự quân bình
xã hội. VN với dân số 85 triệu người mà 2/3 sinh sau 1975 dễ thi hành việc phát
triển đồng đều hơn TQ với 1.5 tỷ dân. Nếu được phát triển liên tục, đến năm
2020, hy vọng VN sẽ có mức sống tương đương với Đài Loan.
•Kiều hối
từ Việt Kiều hải ngoại cũng như chuyên viên và nhân công đi lao động nước ngoài
đã đem về cho VN khoảng gần 10 tỷ Dollars mỗi năm. Ngoài ra, kinh nghiệm về
điều hành cũng như kỹ thuật mà họ học hỏi được sẽ giúp tăng cường khả năng hiểu
biết của lực lượng lao động khi họ về nước.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO (XXX-MMDDYY-XXX-KT-XXXX)
2013
1. ITN-010513-VN-KH-Cong nghe Vu tru Viet
Nam.doc: Các bản tin về Công nghệ Vũ trụ Việt Nam.
2. ITN-011513-VN-KT-Ky nghe det may Viet
Nam.doc: Các bản tin về kỹ nghệ dệt may Việt Nam.
3. ITN-012713-VN-KT-Du lich Viet Nam.doc:
Các bản tin về kỹ nghệ du lịch Việt Nam.
4. ITN-022813-VN-KT-Ky nghe dien hat nhan
VN.doc: Các bản tin cập nhật về dự án xây các nhà máy điện
nguyên tử của Việt Nam.
5. ITN-031313-VN-KT-Thuong hieu Viet
Nam.doc: Các bản tin về thương hiệu Việt Nam.
6. ITN-040513-VN-KT-Casino tai Viet
Nam.doc: Các bản tin về việc mở Casino tại Việt Nam.
7. ITN-041313-VN-KT-Kinh te-Tai chanh
Viet Nam.doc: Các bản tin về kinh tế - tài chánh Việt Nam.
8. ITN-041813-VN-KT-Dau khi Viet Nam.doc:
Các bản tin về ngành dầu khí Việt Nam.
9. ITN-042513-VN-KT-Dau tu song
phuong.doc: Các bản tin liên quan đến đầu tư song phương VN.
10. ITN-043013-VN-KT-Xuat nhap khau
VN.doc: Các bản tin về xuất nhập khẩu Việt Nam.
2012
1. ITN-020912-VN-KT-Bien Dong va nganh
hai san VN.doc: Các bản tin liên quan đến tình hình Biển Ðông
và ảnh hưởng đến ngành hải sản Việt Nam.
2. ITN-021812-VN-KH-Khoa hoc-Giao duc
Viet Nam.doc: Các bản tin về lãnh vực khoa học - giáo dục Việt Nam.
3. ITN-040612-VN-KT-Vinashin.doc: Các
bản tin cập nhật về việc hãng Vinashin phải tái cơ cấu vì thua lỗ
nặng.
4. ITN-061812-VN-KT-Nguyen lieu dat hiem
tai VN.doc: Các bản tin về đất hiếm tại Việt Nam và triển vọng
các thỏa thuận với Nhật Bản.
5. ITN-062412-VN-KT-Lam phat tai Viet
Nam.doc: Các bản tin về lạm phát tại Việt Nam.
6. ITN-102412-VN-KT-Ca phe Viet Nam.doc: Các bản tin về cà
phê Việt Nam.
7. ITN-111112-VN-KT-Nang luong dien hat
nhan Duc-Phap.doc: Các bản tin về hai quan điểm đối nghịch trong
việc xử dụng năng lượng hạt nhân của Đức và Pháp.
8. ITN-111412-VN-KT-Thuy san Viet Nam.doc:
Các bản tin về thủy sản Việt Nam.
9. ITN-111712-VN-KT-Hop tac kinh te
My-Viet.doc: Các bản tin về hợp tác kinh tế Mỹ-Việt.
10. ITN-120412-VN-KT-Nong-lam nghiep Viet
Nam.doc: Các bản tin về nông-lâm nghiệp Việt Nam.'
11. ITN-121812-VN-MT-Viet Nam va Moi
Truong.doc: Các bản tin liên quan đến lãnh vực môi trường tại Việt
Nam.
CHƯƠNG IV: CHÍNH TRỊ & VĂN HÓA & XÃ HỘI
VN, trong lịch sử hơn 1000 năm chống xâm lược phương Bắc,
luôn luôn ở vào thế yếu nhưng chưa bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù mạnh
hơn gấp bội. Vũ khí tối thượng của dân tộc Việt là lòng đoàn kết và sự hy sinh.
•Dân chủ
hóa: Ông Ivan Shai, trong một bài viết hiếm hoi đăng trên
báo South China Morning Post đã viết về quá trình cải cách chính trị tại VN.
Trong khi Bắc Kinh cải cách kinh tế trước, thì Hà Nội lại nổ lực cải cách chính
trị sớm hơn. Trong khá nhiều khía cạnh, VN đã đi trước TQ khá xa trong lãnh vực
này. Dù rằng VN cần ổn định để phát triển, tiến trình dân chủ hóa tại VN không
còn là một xa xỉ phẩm mà là một nhu cầu cấp bách song song với việc phát triển
kinh tế, ngoại giao và quốc phòng. Nhật Bản và Đại Hàn là hai khuôn mẫu mà VN
cần học hỏi. Việt Nam phải dùng “dân chủ hóa” như là một vũ khí chiến lược để
đối trọng với Trung Quốc. Một nước VN dân chủ sẽ là cản lực mà TQ phải e dè. Ba
mươi năm trước, ông Ðặng Tiểu Bình quyết định “dạy Việt Nam một bài học”. Nay,
đang có ý kiến cho rằng chính TQ có thể học hỏi đôi điều từ quá trình cải cách
của người láng giềng phương Nam. Trong gia đình nhỏ bé của các quốc gia XHCN Á
châu, VN luôn đóng vai trò đàn em về cả kinh tế và quân sự đối với TQ. Thế
nhưng một số học giả và nhà phân tích TQ nói nay đã tới lúc Bắc Kinh nên theo
gương Hà Nội trong việc thúc đẩy thay đổi về chính trị. Cả hai nước VN và TQ,
với một nền dân chủ, dù rằng không hoàn toàn, có thể giúp giảm áp lực quân sự
trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông.
•Vai trò
của tôn giáo: Dùng sự giúp đỡ của Phật Giáo và Công Giáo để tổ
chức những buổi thảo luận những vấn đề liên quan đến Biển Đông thay vì để cho
dân chúng biểu tình. Công Giáo, với hơn 8 triệu tín đồ tại VN, với một hệ thống
tổ chức chặt chẽ, có thể giúp chính quyền VN trong việc nói lên quyết tâm của
nhân dân trong nỗ lực bảo vệ lãnh thổ của mình. Quá trình bình thường hóa giữa
Vatican và VN đang tiến triển cho dù chậm chạp. Hai bên đã tiến hành hơn 12
vòng đàm phán trong thời gian qua và thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng đã hội kiến
Giáo Hoàng năm 2007. Hà Nội cho phép Vatican cùng quyết định bổ nhiệm linh mục.
Tới nay Bắc Kinh vẫn tiên quyết làm công việc đó một mình. Năm ngoái, Hồng Y
Zen Ze-kiun tại Hong Kong phát biểu rằng mô hình VN “khá tốt”. Chủ tịch nước
Việt Nam ông Nguyễn Minh Triết vừa gặp Đức Giáo hoàng Benedict XVI tại Tòa
Thánh Vatican ngày 11/12/2009. Sau đó Tòa Thánh Vatican ra thông báo mô tả cuộc
gặp gở là “bước tiến đáng kể” trong hợp tác giữa VN và Vatican. “Đức giáo hoàng
bày tỏ sự hài lòng với chuyến thăm, một bước tiến đáng kể trong tiến trình quan
hệ song phương, và bày tỏ hi vọng các vấn đề tồn tại có thể được giải quyết
càng sớm càng tốt”. Ngày 27 tháng 6 năm 2010, nhóm công tác hỗn hợp Việt
Nam-Vatican kết thúc tại La Mã, Đức Giáo hoàng Benedict XVI sẽ bổ nhiệm
đại diện không thường trực ở Việt Nam, bước tiến tới trong quá trình
bình thường hóa quan hệ ngoại giao song phương. Bắc Kinh luôn luôn giữ im
lặng trước các diễn biến trong quan hệ VN-Vatican tuy có lẽ cho rằng các thay
đổi trong quan hệ này đều sẽ có ảnh hưởng tới TQ. VN không có lý do gì phải chờ
TQ trong nỗ lực riêng của mình.
•Vai trò
của Việt Kiều: Hơn 3 triệu Việt Kiều ở hải ngoại có thể đóng góp rất
nhiều để nói lên thái độ bá quyền của TQ; tuy nhiên, giữa Việt Kiều hải ngoại
và chính quyền VN vẫn có một khoảng cách nhất là vấn đề nhân quyền, tôn giáo và
thái độ đối với TQ. Nhà cầm quyền VN có thể chọn 2 đường đi: tích cực và tiêu
cực. Hành động tích cực có thể kể như sự xin lỗi nhân dân miền Nam và QLVNCH về
những khổ nhục mà họ phải chịu đựng sau năm 75, đưa nghĩa trang Biên Hòa thành
di tích quốc gia, trả lại tên củ cho Sài Gòn v.v.. Với tính tình khó thay đổi của
người Á Đông cũng như sự cao ngạo của giai cấp cầm quyền, những điều này rất
khó đối với chính quyền VN nhưng không phải là không làm được. Hành động tiêu
cực là không làm gì hết cho đến khi thế hệ 50 tuổi trở lên, trong cũng như
ngoài nước, chết đi thì thế hệ trẻ sẽ không có những vấn đề mà những người lớn
tuổi mang nặng trong lòng.
•Thái độ
của chính quyền VN: Những người dân thường, trong và ngoài nước, ít khi
thấy được những cố gắng chiến lược mà chính phủ VN áp dụng khi phải đối đầu với
người láng giềng khổng lồ trong vấn đề biển Đông. Họ chỉ thấy được sự cao ngạo
của TQ và thái độ nhún nhường đến sợ sệt của nhà cầm quyền VN. Trong khi TQ đã
để cho những nhóm quá khích lên mạng cổ võ đề nghị tấn công VN thì nhà cầm
quyền VN lại đàn áp dân chúng biểu tình chống hành động xâm lăng của TQ cũng
như bắt giam các nhà trí thức muốn nói lên ý kiến của mình. Khôn ngoan và nhân
nhượng trong chính sách ngoại giao không thể đồng nghĩa với hèn yếu. Nhà cầm
quyền VN cần thay đổi hình ảnh này trước công luận Quốc Tế cũng như nhân dân VN
và Việt Kiều hải ngoại. Các người lãnh đạo VN cần học hỏi phương thức mà chính
quyền và dân chúng Nhật Bản hành xử đối với Trung Quốc trong việc tranh chấp
chủ quyền đảo Senkaku (Ðiếu Ngư) trong thời gian gần đây.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO (XXX-MMDDYY-XXX-CT-XXXX)
2013
1. ITN-012413-VN-VH-Nguoi ngoai quoc tren
dat Viet.doc: Các bài viết về người ngoại quốc trên đất Việt.
2. ITN-020513-VN-CT-Nguyen Ba Thanh.doc: Các
bài viết về vai trò của ông Nguyễn Bá Thanh.
3. ITN-021913-VN-CT-Tinh than dan
toc.doc: Các bản tin & bài viết liên quan đến tinh thần dân
chúng trong nước và người Việt Nam hải ngoại trong liên hệ đối với Trung Quốc.
4. ITN-022213-VN-CT-Ben thang cuoc.doc: Các
bài viết về cuốn sách “Bên Thắng Cuộc” của nhà văn Huy Đức.
5. ITN-022313-VN-VH-Mon an Viet Nam.doc:
Các bài viết về món ăn Việt.
6. ITN-022313-VN-XH-Hanh trinh xuyen
Viet.doc: Các bài viết về các địa danh đặc biệt tại Việt Nam.
7. ITN-032113-VN-VH-Tin hoc tai Viet Nam.doc:
Các bài viết về tin học tại Việt Nam.
8. ITN-040513-VN-XH-Nguoi Viet khap nam
chau.doc: Các bài viết về người Việt tại khắp năm châu.
9. ITN-041013-VN-CT-Thanh pho Da
Nang.doc: Các bản tin về thành phố Ðà Nẵng.
10. ITN-043013-VN-CT-Chinh tri Viet
Nam.doc: Các bài viết về Chính trị Việt Nam.
11. ITN-050313-VN-CT-Hoa giai dan toc.doc: Các
bản tin liên quan đến vấn đề hòa giải dân tộc.
2012
2. ITN-040912-VN-CT-Tong bi thu Le
Duan.doc: Các bài viết về Tổng bí thư Lê Duẫn.
3. ITN-081912-VN-CT-Nhung khuon mat
trong nuoc.doc: Các bài viết về những khuôn mặt trong đảng Cộng Sản
Việt Nam.
4. ITN-102212-VN-CT-Internet tai Viet
Nam.doc: Các bản tin về Internet tại Việt Nam.
5. ITN-121612-VN-CT-Bieu tinh chong xam
lang.doc: Các bản tin & bài viết liên quan đến các cuộc
biểu tình trong và ngoài nước để phản đối hành vi xâm phạm lãnh hải của Trung
Quốc.
CHƯƠNG V: NGOẠI GIAO
•Hoa Kỳ: Về
phương diện ngoại giao, HK luôn luôn tuyên bố đứng trung lập trong việc tranh
chấp lãnh thổ của các quốc gia khác nhưng cũng yêu cầu các quốc gia liên hệ tự
chế và tuân theo các công ước quốc tế. TQ chắc cũng thừa đủ thông minh để hiểu
được lập trường của HK. Quan hệ giữa HK và VN là quan hệ chiến lược dù rằng bề
ngoài HK không muốn để lộ ra điều này. HK, với những kinh nghiệm học hỏi được trong
cuộc chiến VN, đã rất thận trọng và tế nhị trong mối liên hệ với VN. HK đã đề
nghị một lộ trình để tùy VN chọn lựa. Trong nhiều trường hợp, HK đã để cho VN
chủ động trong việc đi những bước kế tiếp. VN cũng phải chứng tỏ vị thế và
quyết tâm bảo vệ lãnh thổ của mình để có những quyết định hợp lý đúng lúc. HK
là một nước thực dụng, không có bạn thù vĩnh viễn, VN cần để ý điều này.
•Trung
Quốc: Ngoài vấn đề thương mãi, VN cần phát triển trao đổi
văn hóa và hợp tác nghiên cứu khoa học giữa VN và TQ. Từ ngàn năm nay, văn hóa
Việt bị ảnh hưởng rất nhiều từ văn hóa TQ, nhưng chiều ảnh hưởng ngược lại thì
dường như không có. Điều này rất bất lợi cho VN vì theo lập luận của chủ nghĩa
tự do, công luận trong và ngoài nước có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định và
hành động của các quốc gia. Khi hai dân tộc không hiểu nhau, sự thù nghịch càng
trở nên gay gắt. Và sự lấn áp về quân sự của Bắc Kinh càng được công luận trong
nước ủng hộ. Bất cứ một hành động quân sự nào, thắng hay bại, cũng đều tạo ra
mất mát về con người và của cải, nên người dân thường không ủng hộ chiến tranh.
Nhưng nếu sự thù nghịch dân tộc lên đến đỉnh điểm, người ta sẽ không ngại mất
mát và ủng hộ đến cùng. Vì vậy chúng ta phải cố gắng tạo ra sự thông cảm về văn
hóa để tạo một công luận thân thiện với VN và giảm thiểu sự thù nghịch giữa Hán
tộc và Việt tộc. Việc trao đổi văn hóa theo chiều VN sang TQ khó xảy ra trong
thời phong kiến vì TQ coi thường VN là nhược tiểu. Nhưng ngày nay, khoa học
hiện đại không phân biệt nước lớn hay nhỏ mà là sở học của mỗi học giả tham gia
hội thảo. Tinh thần nghiên cứu khoa học không còn phụ thuộc vào dân tộc mà tính
trung thực và chất lượng nghiên cứu. Vẫn có nhiều khoa học gia TQ tôn trọng sự
trung thực, và đây chính là đối tượng chúng ta cần tìm và cùng tham khảo khoa
học một cách chân thành. Tinh thần khoa học sẽ là chiếc cầu nối cho học giả hai
bên cùng nhau trao đổi, học hỏi, và kết tình thân hữu. Đây là chất xúc tác cho
một mối quan hệ thật sự tốt đẹp và lành mạnh giữa hai dân tộc Việt và Hán.
•Asean: Trong
năm 2011, các quốc gia ASEAN, tương đối có thái độ cương quyết hơn trước sự lấn
sân của Trung Quốc. Tuy nhiên trên nhiều khía cạnh, ASEAN vẫn là một tổ hợp
lỏng lẻo. Campuchia, Lào và Miến Ðiện đặt quyền lợi của nước mình với Trung
Quốc bất chấp thái độ gây hấn về vấn đề Biển Ðông với các nước khác trong vùng.
Thái Lan đặt quyền lợi thủy điện tại Lào bất chấp thiệt hại cho Campuchia và
Việt Nam. Các nước ASEAN phải có một tầm nhìn chiến lược để phát triển và tồn
tại trong hòa bình với Trung Quốc. Điều này đòi hỏi giới lãnh đạo trong khối có
tầm nhìn xa, biết hướng tới sự thịnh vượng cho toàn vùng thay vì chỉ thấy mối
lợi cục bộ trước mắt nhưng với cái giá lâu dài phải trả của chính mình và của
các nước lân bang.
•Campuchia
và Lào: Sự gắn bó không thể thiếu giữa Campuchia, Lào và VN
cần phải luôn luôn giữ gìn. TQ luôn tranh giành ảnh hưởng với hai nước này nên
chúng ta không thể sao lãng. VN và Campuchia, Lào luôn luôn ở trong thế “môi hở
răng lạnh”. Bắc Kinh mà khống chế hai nước này hoặc Biển Đông thì chúng ta
không thể nào giữ yên bờ cõi được nữa. Quan hệ với Campuchia và Lào phải đặt
trong bối cảnh an ninh cho toàn vùng Ðông Nam Á bao gồm mọi phương diện từ kinh
tế, thương mãi, quân sự, văn hóa để chống lại sự xâm nhập của TQ. Ðiều này phải
tính luôn cả việc Trung Quốc xây các đập ở thượng nguồn sông Mê Kông như là một
vũ khí chiến lược ảnh hưởng đến sự sống còn của đồng bằng sông Cửu Long của
Việt Nam. Campuchia và Lào, vì quyền lợi của họ, sẵn sàng nhận những giúp đỡ và
đầu tư từ Trung Quốc. Việt Nam, với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, phải làm mọi cách
đừng để hai nước láng giềng lọt vào quỹ đạo của Trung Quốc.
•Các nước
có quyền lợi trong vùng: Các cường quốc trên thế giới
như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn Độ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, các quốc
gia Liên Âu đều có quyền lợi chiến lược về quân sự và kinh tế trong vùng Biển
Đông, do đó VN phải có quan hệ tốt đẹp với những cường quốc này. Khi họ phản
ứng hành động của TQ để bảo vệ cho quyền lợi của họ, VN cũng được phần lợi
trong đó. Cho đến cuối năm 2011, Việt Nam đã thiết lập được quan hệ chiến lược
với 8 cường quốc mà Anh Quốc là nước mới nhất. Liên Âu cũng là một thực lực có
thể giúp đở Việt Nam trong vấn đề Biển Ðông và phát triển kinh tế và quốc
phòng.
•Liên Hiệp
Quốc: VN, với tư cách thành viên không thường trực của
hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc có thể đưa vấn đề Biển Đông ra trước tòa án Quốc
Tế. TQ, với tư cách là thành viên thường trực sẽ dùng quyền phủ quyết nhưng
điều này sẽ giảm uy tín của TQ trên chính trường quốc tế.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO (XXX-MMDDYY-XXX-NG-XXXX)
2013
1. ITN-022613-VN-NG-Vi the Viet Nam.doc:
Các bản tin về vị thế của Việt Nam trên thế giới.
2. ITN-030213-VN-NG-Quan he Viet-Uc.doc: Các
bản tin về quan hệ giữa Việt Nam và Úc Đại Lợi.
3. ITN-031413-VN-CT-Quan he
VN-Vatican.doc: Các bản tin về quan hệ Việt Nam – Vatican.
4. ITN-032013-VN-NG-Quan he Viet-Nga.doc: Các
bản tin về quan hệ giữa Việt Nam và Nga Sô.
5. ITN-032813-VN-NG-Quan he VN-Lien Au.doc:
Các bản tin về quan hệ Việt Nam – Liên Âu.
6. ITN-041513-VN-NG-Quan he Viet-Nhat.doc:
Các bản tin về quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản.
7. ITN-041813-VN-NG-Doi tac chien luoc
VN-Quoc te.doc: Các bản tin liên quan đến các hiệp định chiến
lược quốc tế.
8. ITN-042413-VN-NG-Quan he
Viet-Trung.doc: Các bản tin về quan hệ giữa Việt Nam và Trung
Quốc
9. ITN-050113-VN-NG-Quan he Viet-My.doc: Các
bản tin về quan hệ Việt-Mỹ.
2012
1. ITN-082512-VN-NG-Ngoai giao Viet
Nam.doc: Các bản tin về hoạt động ngoại giao Việt
Nam.
2. ITN-100412-VN-NG-Duong luoi bo.doc: Các
bản tin liên quan đến đường lưỡi bò.
3. ITN-122412-VN-NG-Quan he Viet-An.doc:
Các bản tin về quan hệ giữa Việt Nam và Ấn Độ.
CHƯƠNG VI: QUÂN SỰ
Trong chương này, chúng tôi không đi vào chi tiết về Hải
Quân VN. Điều này sẽ được nói rỏ trong phần tương quan lực lượng. Cũng không
nên so sánh tương quan lực lượng giữa TQ và VN nhất là Hải Quân vì TQ
phát triển Hải Quân của họ không những để đối đầu với HK mà còn đến các nước có
quyền lợi trong vùng Nhật Bản, Ấn Độ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Đài
Loan. VN dù nhỏ nhưng là một mắc xích quan trọng trong nỗ lực ngăn chận Hải
Quân TQ mở rộng khu vực hoạt động của họ. Việc phối hợp và nhận sự giúp đỡ của
HK và các quốc gia đồng minh là điều cần thiết vì VN là nước hứng chịu áp lực
quân sự đầu tiên từ TQ.
Trong năm 2011 đã có những hoạt động dồn dập của các phái
đoàn ngoại giao và quân sự Việt Nam tại Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Ðại Hàn, Ấn Ðộ
và các nước Liên Âu. Việc tăng cường hệ thống phòng thủ đã có nhiều thay đổi
nhất là về Hải, Không Quân, các hệ thống phòng không và phòng thủ duyên hải.
PHÒNG THỦ
DUYÊN HẢI
Việc phát triển Hải Quân nên tập trung trong 2 lãnh vực:
Phòng thủ cận duyên - Phòng thủ viễn duyên. Vấn đề phòng thủ chiến lược được quyết
định ở cấp bậc cao hơn. Vấn đề phòng thủ cũng phải được đặt nặng tại các vị trí
đóng quân ở Trường Sa cũng như khu vực thềm lục địa phía Ðông Nam Việt Nam.
1.PHÒNG THỦ
CẬN DUYÊN:
•Hạm đội
tàu đánh cá vũ trang: Phát triển hạm đội tàu đánh cá vũ trang để hoạt động
trong vùng Biển Ðông nhất là khu vực Trường Sa. TQ đã phát triển rất mạnh hạm
đội tàu đánh cá vũ trang của họ với sự hộ tống của Hải Quân cũng như các tàu
kiểm soát ngư nghiệp. Chiến thuật du kích chiến trên biển cả chắc cũng đã được
các chuyên viên nghiên cứu chiến thuật VN nghĩ tới dù rằng điều này khó hơn
trên đất liền nhiều nhất là vấn đề trang bị. Các tàu này sẽ là đội quân tiên
phong trong nhiệm vụ bảo vệ lãnh hải dù rằng phải hy sinh khi đối đầu với hải
quân TQ. Dân tộc VN luôn luôn chấp nhận điều này. Cuộc chiến biên giới
Việt-Trung năm 1979 đã chứng tỏ khả năng của lực lượng dân quân VN.
•Không Lực
của Hải Quân: HQVN đang tập trung để phát triển không lực riêng
để đảm nhiệm việc phòng thủ biển. Ông Robert Karniol, một chuyên gia có
uy tín trong lĩnh vực quân sự ở khu vực, viết trên nhật báo Straits
Times của Singapore đưa tin Việt Nam chuẩn bị thiết lập bộ phận không
quân nằm trong hải quân và chính phủ Việt Nam sẽ sớm công bố kế hoạch
này. Các nước trong khu vực có không quân trực thuộc hải quân là Trung
Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc, Đài Loan và
Thái Lan. Theo tác giả Karniol, Việt Nam đã mua ba máy bay EADS-CASA C212
Series 400 của Tây Ban Nha chuyên tuần tra và theo dõi biển. Các máy bay
này có trang bị radar MSS 6000 và bộ phận không quân mới sẽ chịu
trách nhiệm vận hành chúng cho mục đích tuần duyên. Nguồn tin của
báo này còn cho hay việc thuyên chuyển, điều động nhân sự và trang
thiết bị đã bắt đầu diễn ra và đại bản doanh của không lực hải quân
sẽ được đặt tại sân bay quân sự (Cát Bi) Hải Phòng. Mười lăm (15) trực
thăng Kamov loại Ka-28 sẽ được chuyển sang cho hải quân và bộ phận
không quân mới sẽ sẵn sàng hoạt động trong năm 2010. Tuy nhiên, với các
chiến đấu cơ được lắp đặt tên lửa chống tàu chiến, bao gồm cả loại
hỏa tiễn không-hải AS-17 Krypton cùng với các chiến đấu cơ Su-30MK2 mà VN
vừa mua trong thời gian gần đây, không quân Việt Nam cũng vẫn góp phần trong
việc phòng thủ duyên hải. Máy bay chiến đấu loại Su-30MK2 được cải biến
để có khả năng tấn công và tiêu diệt các mục tiêu trên biển trong mọi
điều kiện thời tiết và thời gian. Ngày 1 tháng 5 năm 2010, theo báo trên mạng
Times Colonist, tập đoàn chế tạo máy bay Canada Viking Air cho biết là trong
tuần qua đã hoàn tất thỏa thuận bán 6 thủy phi cơ Twin Otter cho bộ Quốc Phòng
Việt Nam, trị giá mỗi chiếc là 5 triệu đô la Canada. Đây là lần thứ hai, bộ
Quốc Phòng Việt Nam đặt mua máy bay do phương Tây chế tạo, đó là loại thủy phi cơ
DHC-6 Twin Otter Series 400 được thiết kế để phục vụ cho các hoạt động trên
biển và sẽ trở thành một thành phần quan trọng cho lực lượng không quân của hải
quân Việt Nam. Giới phi công quốc tế đánh giá cao thủy phi cơ Twin Otter về độ
bền chắc và khả năng hạ cánh trên phi đạo rất ngắn. Theo tập đoàn Viking, các
máy bay nói trên sẽ được giao cho Việt Nam trong thời gian từ 2012 đến 2014.
Công ty Pacific Sky Aviation, một chi nhánh thuộc tập đoàn Viking, đặt tại sân
bay quốc tế Victoria sẽ chịu trách nhiệm về đào tạo kỹ thuật và huấn luyện bay.
Đầu năm nay, trang web của nhật báo The Straits Times tại Singapore cho biết là
quân đội Việt Nam mua thủy phi cơ Twin Otter để phục vụ cho các cuộc tuần tra
của hải quân Việt Nam. Các phi cơ được trang bị radar và sẽ hỗ trợ cho hạm đội
6 tàu ngầm hạng Kilo do Nga chế tạo mà Việt Nam đã đặt mua hồi tháng 12 năm
ngoái.
•Hệ thống
phòng duyên: Trong cuộc chiến VN, hệ thống phòng duyên của Bắc Việt
có thể xem là hữu hiệu nhất thế giới. Các trọng pháo phải được thay thế bằng
các hỏa tiễn địa đối hải tầm ngắn (100 km). Các hỏa tiễn hành trình
tầm trung (200-300 km) hướng dẫn bằng vệ tinh cũng là điều nên nghĩ đến.
Các loại hỏa tiễn này cũng có thể được trang bị trên các đảo do VN kiểm soát
trong vùng Trường Sa. VN đã đặt mua hệ thống phòng không S300PMU1 và 12 giàn
phóng tên lửa Project 12418. Các hỏa tiễn phòng không này cũng có thể dùng để phòng
thủ duyên hải. Tại Triển lãm các hệ thống quốc phòng diễn ra ở Malaysia 2010,
Nga đã trưng bày hệ thống hoả tiển Container Club-K. Ðây cũng là một hệ
thống phòng thủ tốt và giá cả vừa phải cho các quốc gia nhỏ, nhiều hải đảo và
bờ biển dài như Việt Nam. Tin mới nhất vào tháng 5-2010 cho biết Việt Nam sẽ
mua loại hỏa tiễn EXTRA của Do Thái để tăng cường phòng thủ các hải đảo. Truyền
thông Nga vào tháng 3-2012 đưa tin hãng chế tạo máy bay quân sự Irkut vừa
ký hợp đồng sản xuất máy bay không người lái cỡ nhỏ (UAV) cho Việt
Nam. Việt Nam cũng đã tiếp xúc với Do Thái. Các phi cơ UAV hạng trung vỏ trang
có thể dùng để bảo vệ Trường Sa.
•Tàu ngầm: Trong
thời gian vừa qua, VN đã đặt mua 6 tàu ngầm loại KILO 636 của Nga. Các
tàu này sẽ giúp cho VN tăng cường khả năng phòng thủ chống tàu ngầm, vừa
tiêu diệt tàu chiến của đối phương, bảo vệ các căn cứ quân sự trên bờ và tuần
thám.
•Hệ thống
chống tàu ngầm: Nhật Bản là nước có hệ thống phát hiện và chống tàu
ngầm hữu hiệu nhất thế giới. Sự kiện Nhật Bản hạ thủy
chiếc Hàng Không Mẫu Hạm hạng nhẹ chở trực thăng chống tàu ngầm loại Hyuga
trọng tải 20,000 tấn vào năm 2007 cho thấy hoạt động chống tàu ngầm của Nhật
Bản không chỉ giới hạn xung quanh hải phận Nhật Bản. VN nên nhờ sự
giúp đỡ của HK và Nhật Bản để thiết lập hệ thống các phao định vị trong việc
phát hiện các tàu ngầm TQ dọc theo bờ biển VN cũng như trong vùng biển Đông.
Ngoài ra, VN cũng phải phát triển các phương tiện tấn công các tàu ngầm
(chiến hạm săn tàu ngầm, phi cơ tầm xa, trực thăng).
•Chiến hạm
tuần tiễu cận duyên: Trong thời gian qua, VN đã ký hợp đồng với Nga để
mua hay đóng dựa theo thiết kế của Nga các chiến hạm thế hệ mới từ 500 - 2,000
tấn thuộc loại Molniya, Petya, Gepard. Chi tiết về 3 loại chiến hạm này được
nói rõ trong phần Tương Quan Lực Lượng - Hải Quân VN.
2.PHÒNG THỦ
VIỄN DUYÊN:
•Trang bị: VN
không có các khu trục hạm loại Aegis để phối hợp tuần tiễu xa. Việc vị Tư lệnh
Hải quân VN thăm viếng Đại Hàn trong thời gian vừa qua cho thấy VN đã nghĩ đến
điều này. Các khu trục hạm loại Aegis do Đại Hàn đóng chắc chắn sẽ rẻ hơn HK và
Nhật Bản nhiều. Ngoài các khu trục hạm hạng nhẹ loại Gepard 3.9, HQVN cũng nên
có từ 2-4 chiếc khu trục hạm cỡ 5,000 tấn. Các chiến hạm này sẽ được dùng để
tuần tiểu chung với chiến hạm đồng minh và cũng có thể trang bị hệ thống lá
chắn chống tên lửa. Việt Nam nên nghĩ đến việc phối hợp với Nhật Bản hay Ðại
Hàn để đóng phần vỏ các loại này tại Việt Nam để phát triển ngành kỹ nghệ đóng
tàu quốc phòng và giảm giá thành.
•Hoạt động: VN
không có khả năng tuần tiễu viễn duyên một mình.
Trong tương lai, viễn tượng 1 hay 2 Hải Đoàn Đặc Nhiệm Hàng Không Mẫu Hạm với
các chiến hạm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan tuần tiễu
Biển Đông chung với VN và các quốc gia ASEAN là điều có thể xảy ra.
PHÒNG THỦ
CHIẾN LƯỢC
Có 4 vấn đề mà VN cần suy nghĩ:
•Hiệp ước
phòng thủ hỗ tương Hoa Kỳ-Việt Nam: Hiện nay trong vùng Đông
Á và Đông Nam Á đã có 5 quốc gia (Nhật Bản, Đại Hàn, Phi Luật Tân, Singapore,
Thái Lan) đã ký hiệp ước phòng thủ hỗ tương với HK dù rằng các quốc gia này
không chịu một áp lực trực tiếp nào từ TQ. Dù rằng hoàn cảnh khác nhau sau 3
cuộc chiến, Nhật Bản và Đại Hàn vẫn để cho HK có các căn cứ quân sự tại nước
mình. Hiệp ước phòng thủ hỗ tương Hoa Kỳ-Việt Nam là điều VN cần nghĩ tới trong
một thời điểm thích hợp. Ngày 17 tháng 8, 2010, một cuộc họp ở cấp thứ trưởng
bộ Quốc Phòng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã được mở ra tại Hà Nội trong khuôn khổ
mang tên Đối thoại Chính sách Quốc phòng.
•Hệ
thống lá chắn chống tên lửa: Hiện nay, các
quốc gia đồng minh trong vùng, từ Nhật Bản , Đại Hàn ,
Đài Loan, không nhiều thì ít , đều phát
triển quốc gia của mình với sự bảo vệ của
chiếc dù nguyên tử của Hoa Kỳ cũng như tham
gia hệ thống lá chắn chống tên lửa. VN, nếu cần hoàn thiện hệ thống
phòng thủ của mình phải nghĩ đến điều này.
•Hải cảng
Cam Ranh: Cam Ranh là một hải cảng thiên nhiên tốt nhất vùng
Đông Nam Á. VN rất kín miệng về tương lai của hải cảng này, nhất là về lãnh vực
quân sự. Nga Sô thì không đủ khả năng tài chánh để trở lại Cam Ranh. Hải cảng
Cam Ranh, hiện nay vẫn còn trực thuộc bộ Quốc Phòng VN, nên được phát triển
đúng tiềm năng để biến thành một quân cảng cho tàu chiến cũng như tàu
ngầm và trung tâm sửa chữa tàu bè quân sự lớn nhất vùng Đông Nam Á. VN có thể
phối hợp với Nga Sô cũng như nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ và Nhật Bản về phương
diện tài chánh và kỹ thuật để nâng cấp quân cảng Cam Ranh. Các chiến hạm Đồng
Minh có thể sử dụng quân cảng này lúc cần thiết. Những lời tuyên bố của bộ
trưởng Quốc Phòng Nga Anatoly Serdyukov ngày 25 tháng 03, 2010 tại Hà Nội cho
thấy Việt Nam đang tiến hành dự định này. Trong khi Trung Quốc đang phát triển
mạnh mẽ quân cảng Tam Á trên đảo Hải Nam thì thật là điều ngu xuẩn khi họ lại
ngăn cản không cho Việt Nam làm điều tương tự. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong
cuộc họp báo ngày 30-10-2010, tuyên bố “Việt Nam sẵn sàng cung cấp dịch vụ cho
tàu hải quân của tất cả các quốc gia, kể cả tàu ngầm tại cảng Cam Ranh khi có
yêu cầu”. Báo Tuổi Trẻ trích dẫn lời của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam tướng
Phùng Quang Thanh nói rằng cảng Cam Ranh cũng có thể là nơi lấy nhiên liệu cho
hàng không mẫu hạm. Ngày 23-12-2010, chính phủ Việt Nam đã nâng cấp thị xã Cam
Ranh lên thành phố Cam Ranh. Nếu thành phố Cam Ranh được phát triển có dân số
độ 1 triệu người thì hải-quân cảng Cam Ranh sẽ có vị thế rất quan trọng trong
vùng Ðông Á. Trong nhiều khía cạnh, sử dụng quân cảng Cam Ranh đòi hỏi quyết
định can đảm của cấp lãnh đạo Việt Nam vì quyền lợi dân tộc. Nếu đợi một biến
cố xẩy ra mới quyết định thì phần lớn thiệt thòi sẽ về phía Việt Nam.
Minh
họa hạm đội Sô Viết tại hải cảng Cam Ranh trong thập niên 80
•Vũ khí
nguyên tử: Rất ít người đề cập đến vấn đề này. Giáo sư Arthur
Waldron thuộc viện Quan Hệ Quốc Tế của đại học Pennsylvania là
người độc nhất đề cập đến vấn đề hạt nhân cho VN. Ba quốc gia mà VN cần để ý
đến trong vấn đề này:
-Đại Hàn
và Nhật Bản: Hiện này Bắc Hàn có thể xem như đã có vũ khí nguyên
tử dù rằng trong giai đoạn sơ khai và đang bị chế tài bởi cộng đồng quốc tế.
Lấy ví dụ sau này Triều Tiên được thống nhất thì một nước Triều Tiên thống nhất
có thể là một quốc gia có vũ khí nguyên tử. Nhật Bản có thừa khả năng để chế vũ
khí nguyên tử nhưng hiện nay vẫn được che chở bằng chiếc dù nguyên tử của HK.
Nếu Triều Tiên có vũ khí nguyên tử thì bắt buộc Nhật Bản phải có quyết định
thích ứng. Cả hai nước đều ký hiệp ước phòng thủ hỗ tương và được che chở bằng
chiếc dù nguyên tử của Hoa Kỳ nên trong tương lai gần, việc 2 nước này có vũ
khí nguyên tử là điều chưa thể xảy ra.
-Do Thái: Ai
cũng biết Do Thái có thể có vũ khí nguyên tử mà không phải qua tiến trình phát
triển phát triển nguyên tử lực dù cho mục đích dân sự hay quân sự như Bắc Hàn
và Iran. VN có thể học hỏi những kinh nghiệm từ Do Thái.
Bản tin quốc tế ngày 05/08/2010 cho biết bộ ngoại
giao Hoa Kỳ đang thương lượng với Việt Nam về chương trình trợ giúp hạt nhân,
cung cấp nhiên liệu và công nghệ hạt nhân kể cả việc tinh lọc uranium.
GIÚP ĐỠ
CỦA CÁC QUỐC GIA ĐỒNG MINH
Việt Nam nên cố gắng liên hệ để nhận sự giúp đỡ quân sự
của các quốc gia Đồng Minh:
•Hoa Kỳ: Giúp đỡ
quân sự của HK cho VN có tính cách chiến lược hơn là mua bán vũ khí. Các phi cơ
và chiến hạm của HK rất là tối tân và mắc tiền, ngoài khả năng của VN. Chiến
hạm căn bản của HK là các khu trục hạm Aegis nặng 10,000 tấn với giá 1 tỷ USD
một chiếc. Ngoài ra, HK có khuynh hướng viện trợ hay bán lại cho Đồng Minh các
chiến hạm cũ không còn thích hợp cho các chiến trường tương lai. VN nên nhờ HK
giúp đỡ về vấn đề huấn luyện cũng như các loại vũ khí chiến lược mà các nước
khác không có.
•Nga Sô: Khác
với HK, Nga Sô cho đến bây giờ vẫn còn sản xuất các chiến hạm loại nhỏ từ
700 tấn cho đến 3,000 tấn dùng để xuất cảng. Đặc điểm của các chiến hạm Nga là
rẻ tiền và khả năng tấn công rất mạnh, phù hợp với các quốc gia nghèo. Quan hệ
quân sự Nga-Việt trong nhũng năm gần đây đặt nặng về vấn đề mua bán. Thay vì
mua bán trọn gói như giữa Nga-Trung, VN chọn giải pháp mua phần vỏ trước, vũ
khí và trang bị tiên tiến sẽ được mua sau với giá rẻ hơn mà không bị ràng buộc
bởi các hiệp ước quốc tế cũng như sự theo dỏi của các quốc gia thứ ba. Điểm lợi
là VN có thể cải tiến hệ thống vũ khí và trang bị khác với TQ. Dù rằng Trung
Quốc là khách hàng số một trong việc mua dầu khí cũng như vũ khí mới của Nga;
nước này vẫn luôn nhìn Trung Quốc với thái độ dè chừng. Trong nhiều khía cạnh,
Nga có thể phối hợp với Hoa Kỳ và Nhật Bản để giúp Việt Nam trong lãnh vực quân
sự.
•Nhật Bản:
Cũng như HK, những sự giúp đỡ quân sự của Nhật Bản cho VN có tính cách
chiến lược hơn là mua bán vũ khí. HK đã chuyển giao kỹ thuật đóng các khu
trục hạm trang bị hệ thống Aegis cho Nhật Bản từ lâu. Giá cả đóng các khu trục
hạm Aegis tại Nhật Bản chắc cũng mắc như tại HK. VN nên nhờ Nhật Bản giúp đỡ về
vấn đề huấn luyện nhất là về khả năng dò tìm và tấn công tàu ngầm.
•Đại Hàn:
Đại Hàn đang đóng các khu trục hạm trang bị hệ thống Aegis với sự chuyển
giao kỹ thuật từ hải quân HK. VN nên thương lượng với Đại Hàn để mua các khu
trục hạm này. Chắc chắn giá cả sẽ rẻ hơn các chiến hạm tương đương đóng tại Hoa
Kỳ và Nhật Bản. Ngoài ra, Đại Hàn là quốc gia thứ hai ngoài HK đã thử nghiệm
thành công hệ thống hỏa tiễn chống tàu ngầm. Có nguồn tin nói rằng HK và Đại
Hàn đang phối hợp để đóng các chiến hạm. VN nên tham gia vào chương trình này.
Đại Hàn cũng đang sử dụng hộ tống hạm 400 tấn loại Gumdoksuri-PKX Class trang
bị trọng pháo 76 và 40 ly và hỏa tiễn hải-hải mà VN có thể mua. Loại này cũng
tương tự như loại Molniya của Nga mà VN đang đóng. Cuộc viếng thăm Đại Hàn của
vị Tư Lệnh Hải Quân VN trong thời gian mới đây chắc cũng nhằm mục đích
trên.
Ngày 13-10-2010, Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Kim Tae
Young thăm chính hữu nghị chính thức Việt Nam và dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc
phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) đầu tiên. Bộ trưởng quốc phòng hai nước đã ký Biên
bản ghi nhớ về Hợp tác Quốc phòng song phương.
•Ấn Độ: Ấn Độ
là nước nhập cảng chiến cụ nhiều nhất từ Nga Sô nên họ có rất nhiều kinh nghiệm
trong lãnh vực này. Các chiến hạm và hỏa tiễn do Ấn Độ sản xuất chắc cũng rẻ
hơn HK và Nhật Bản nhiều. VN có thể nhờ Ấn Độ cung cấp các phụ tùng linh kiện
cũng như ứng dụng tin học Hải Quân. Ấn Độ cũng có thể giúp huấn luyện sử dụng
tàu ngầm loại Kilo mà VN vừa mua của Nga. Hỏa tiễn siêu âm BrahMos của Ấn Ðộ thuộc
loại tân tiến nhất thế giới. Đài BBC đầu tháng 6-2010 trong buổi phỏng vấn
giáo sư Bharat Karnad, chuyên gia an ninh - quốc phòng từ Viện Nghiên Cứu
Chiến Lược Ấn Độ tại New Delhi, về quan hệ quân sự Việt - Ấn đang
tiếp tục được thúc đẩy và cho rằng hai bên đang đi đúng hướng, thuộc
loại quy mô nhất mà Ấn Độ có với một nước châu Á khác. Có thể
chúng ta không nghe nhiều thông tin về quá trình này, vì tính nhạy
cảm của nó nhất là đối với một nước thứ ba.
Đề nghị của Việt Nam do chính chủ tịch nước Trương Tấn
Sang đưa ra trong chuyến viếng thăm Ấn Độ vào cuối năm 2011 bao gồm bốn lĩnh
vực: (1) Huấn luyện lực lượng sử dụng tàu ngầm (2) Ðào tạo phi công để lái loại
chiến đấu cơ Sukhoi-30 (3) Hiện đại hóa một hải cảng chiến lược và (4) Chuyển
giao tàu chiến cỡ trung. Ngoài ra, Việt Nam đã yêu cầu Ấn Độ cung cấp tên lửa
hành trình BrahMos, đồng thời đề nghị New Delhi giới thiệu các nhà máy điện hạt
nhân cỡ nhỏ của Ấn Độ để Việt Nam lựa chọn.
•Pháp: Nhân
chuyến công du Hà Nội ngày 25 và 26-11-2010 vừa qua, ông Pierre Lellouche, quốc
vụ khanh phụ trách Ngoại thương khẳng định: “Nước Pháp sẽ có mặt trên thị
trường này”. Quan hệ quân sự song phương Pháp - Việt đã có một bước tiến quan
trọng hồi tháng bẩy năm nay khi ông Hervé Morin, lúc đó là bộ trưởng Quốc phòng
đã tới Việt Nam. Chuyến thăm này mang “tính biểu tượng cao” bởi vì đây là lần
đầu tiên từ sau thất bại của quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ 1954, một bộ
trưởng Quốc phòng Pháp sang Việt Nam. Ông Morin đã tuyên bố là về mặt chính
trị, Paris sẵn sàng tham gia vào việc hiện đại hóa quân đội Việt Nam và cho
biết là gần đây, Việt Nam đã mua trực thăng, máy bay vận tải quân sự, radar của
Pháp. Theo giới quan sát, trong những năm vừa qua, quân đội Việt Nam đã tiến
hành nâng cao khả năng tác chiến. Với chiều dài bờ biển gần 3,200 km, Việt Nam
đương nhiên chú trọng đến các loại vũ khí, khí tài cho hải quân, nhất là trong
bối cảnh các căng thẳng với Trung Quốc ngày càng gia tăng do có những tranh
chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông.
•Do Thái: Do Thái
là đồng minh thân thiết của Hoa Kỳ với kỹ nghệ Quốc Phòng tiên tiến nhất là
phương tiện phòng thủ. Do Thái cũng là một trong những đối tác chiến lược mà
Hoa Kỳ đặt các kho vũ khí dự trữ. Việt Nam nên nhờ Do Thái tân trang các chiến
cụ cũ như phi cơ và chiến xa cũng như các vũ khí phòng thủ v.v.. Trong nhiều
khía cạnh, sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho Việt Nam qua ngả Do Thái là cách hay nhất
mà phe thứ ba cũng chẳng phản ứng gì được.
•Phi Luật
Tân: Philippines ở gần các đảo phía Đông
Trường Sa. VN nên thương thuyết với Philippines để có những cuộc tuần
tiễu hỗn hợp cũng như cho phép hải quân cũng như tàu đánh cá VN được dùng các
căn cứ của Phi Luật Tân để sửa chữa và nghỉ ngơi khi cần thiết. Sự kiện tàu
ngầm nguyên tử loại Ohio mang 154 hỏa tiễn Tomahawk xuất hiện tại Subic trong
thời gian gần đây chứng tỏ hải cảng này vẫn còn sẵn sàng cho các chiến hạm Hoa
Kỳ dù rằng hải quân Hoa Kỳ đã rút khỏi quân cảng này từ lâu. Hiệp ước hợp tác
nghề cá giữa Philippines-Việt Nam vừa ký cách đây mấy tháng và dù rằng tổng
thống Philippines hoãn lại chuyến thăm viếng Việt Nam dự định ngay trước cả Hoa
Kỳ cũng nói lên được sự liên hệ chiến lược giữa 2 quốc gia trong thời gian sắp
tới.
•Úc Ðại
Lợi: Theo tin từ Đại sứ quán Úc tại Việt Nam, ngày
11-10-2010 Bộ trưởng Quốc phòng Úc Stephen Smith và đồng nhiệm Việt Nam đã ký
kết tại Hà Nội một thỏa thuận ghi nhớ về hợp tác song phương. Theo phia Úc, văn
kiện này sẽ làm khuôn khổ cho việc hợp tác cải thiện giữa hai nước trong các
lãnh vực bao gồm đối thoại chính sách chiến lược, huấn luyện và diễn tập quân
sự, trợ giúp nhân đạo và cứu trợ thiên tai.
•Các nước
khác: Tin trên tạp chí mạng chuyên về quốc phòng
DefenceWeb ngày 7-10-2010 chạy tin tập đoàn vũ khí Nam Phi đang chào bán
hệ thống tên lửa tầm ngắn Umkhonto cho Việt Nam.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO (XXX-MMDDYY-XXX-QS-XXXX)
2013
1. ITN-022213-VN-QS-Tau ngam Kilo.doc: Các
bản tin về lực lượng tàu ngầm Việt Nam.
2. ITN-041113-VN-QS-Cac bai viet ve cang
Cam Ranh.doc: Các bài viết về cảng Cam Ranh.
3. ITN-050213-VN-QS-Viet Nam tang cuong
phong thu.doc: Các bản tin liên hệ đến việc Việt Nam tăng cường
phòng thủ.
4. ITN-050513-VN-QS-Cong nghe Quoc Phong
Viet Nam.doc: Các bản tin về công nghệ Quốc phòng Việt Nam.
2012
1. ITN-012912-VN-QS-Quan he quoc phong
Viet-Trung.doc: Các bản tin về quan hệ quốc phòng Việt – Trung.
2. ITN-021612-VN-QS-33 nam Cuoc Chien
Bien Gioi.doc: Các bài viết về Cuộc Chiến Biên Giới Việt-Trung 1979.
3. ITN-022712-VN-QS-Doi thoai chien luoc
Viet Nam-Dong Minh.doc: Các bản tin về quan hệ chiến lược Việt Nam -
Đồng Minh.
4. ITN-051712-VN-QS-Chien luoc phong thu
Bien Dong.doc: Các bản tin liên hệ đến chiến lược phòng thủ
Biển Đông.
5. ITN-052912-VN-QS-Quoc Phong Viet
Nam.doc: Các bản tin về Chính sách Quốc phòng Việt Nam.
6. ITN-061012-VN-QS-KTH Gepard 3.9.doc: Các
bản tin liên hệ đến 2 tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 của Việt Nam.
7. ITN-062912-VN-QS-Viet Nam va tap tran
Dong Minh.doc: Các bản tin về Việt Nam và các cuộc tập trận của
các quốc gia Đồng Minh trong vùng.
8. ITN-102012-VN-QS-Tham vieng hai quan
My-Viet.doc: Các bản tin liên quan đến việc thăm viếng Việt Nam của
các chiến hạm Hoa Kỳ.
9. ITN-112012-VN-QS-Hop tac quoc phong
My-Viet.doc: Các bản tin liên quan đến tiến trình hợp tác quân
sự Mỹ-Việt.
10. ITN-112712-VN-QS-Doi thoai Quoc phong
Viet Nam-Dong Minh.doc: Các bản tin về đối thoại Quoc phòng Việt Nam
- Đồng Minh.
CHƯƠNG VII: KẾT LUẬN
Một nhà ngoại giao HK đã nói: “Việt Nam có thể chọn bạn
nhưng không thể chọn láng giềng”. VN là cái gai ngăn chận con đường Nam Tiến
của TQ. Dân tộc VN đã có hai ngàn năm đối phó với người láng giềng khổng lồ ở
phương Bắc. Dù TQ có mạnh đi mấy chăng nữa nhưng họ không thể ép VN làm điều họ
muốn vì động cơ sống còn của VN chắc chắn mạnh hơn động cơ thống trị của TQ.
VN, phải rất khôn ngoan và kiên nhẫn, cố gắng nỗ lực phát
triển về mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao, quân sự để
bảo vệ sự sống còn của mình. Phần còn lại là thái độ của TQ. TQ có thể chọn
thái độ hòa hoãn với lân bang để cùng phát triển mang lại thịnh vượng cho dân
chúng, giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải bằng giải pháp hòa bình
thông qua thương lượng, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế. TQ chắc chắc không
nuôi mộng trở thành một nước như Đức Quốc Xã hay Nhật Bản trước Thế Chiến thứ
2.
Nếu có thể tạo dựng cơ chế phù hợp để duy trì và thắt
chặt mối cân bằng quyền lợi, khát vọng, và tình cảm của hai bên, VN và TQ sẽ có
nhiều cơ hội để cuối cùng có thể loại bỏ chiến tranh, đối địch ra khỏi mối quan
hệ để cùng nhau phát triển.
LỊCH
TRÌNH TU CHỈNH
1) 15-8-2009: Hoàn tất bài viết.
2) 31-12-2012: Tu chỉnh bài viết để cập nhật những biến
chuyển trong năm 2011 & 2012.
Nguyễn
Mạnh Trí
E-Mail:
prototri@yahoo.com
www.tranhchapbiendong.com
Tu chỉnh: 5 tháng
5 năm 201
No comments:
Post a Comment