'Việt Nam vẫn nên đòi chủ quyền'
Cập nhật: 11:25 GMT - thứ hai, 30 tháng 9, 2013
Mặc dù tranh chấp chủ quyền trên biển Đông là phức tạp, không dễ giải quyết ngày một, ngày hai, Việt Nam vẫn nên đòi chủ quyền của mình, theo lời khuyên của cựu Đại sứ Anh từng làm việc tại Việt Nam trong giai đoạn 1980-1982.
Cựu Đại sứ Derek Tonkin cho rằng Anh quốc không ủng hộ bất cứ hành động quân sự hoặc xâm lược nào mà một quốc gia tranh chấp chủ quyền tiến hành với quốc gia khác.
"Nó có chiều hướng làm tăng nhiệt căng thẳng và có xu thế dẫn tới có thêm các cuộc giao tranh và các cuộc xung đột vũ trang đẫm máu", nhà ngoại giao bình luận về cuộc cưỡng chiếm của Trung Quốc đối với Hoàng Sa từ tay chính quyền Việt Nam Cộng hòa năm 1974.
Về con đường cải tổ dân chủ của Việt Nam hiện nay, cựu Đại sứ Anh cho rằng mọi việc hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của nhân dân Việt Nam, vì theo ông mỗi quốc gia cần tự tìm kiếm một giải phảp riêng.
"Phần lớn những quy ước quốc tế, tôi nghĩ Việt Nam đều đã tham gia, nhưng điều mà tôi đặc biệt quan ngại là về tự do tôn giáo và tự do ngôn luận," ông Tonkin nói.
"Tôi nhớ là đã được thông báo rằng tôi cần luôn chuẩn bị để rời tòa đại sứ trong vòng 24 tiếng đồng hồ... trong trường hợp quân đội Trung Quốc tràn xuống"
Trao đổi với BBC nhân dịp đánh dấu 40 năm thiết lập quan hệ giữa London và Hà Nội, cựu Đại sứ Anh cũng thuật lại kinh nghiệm của mình với tư cách nhà ngoại giao khi đặt chân tới Việt Nam vào thời điểm nước này vừa chịu cuộc tấn công của Trung Quốc trên toàn tuyến biên giới phía Bắc vào năm 1979.
Ông cũng đưa ra nhận xét cá nhân về một số một số chính trị gia, nhà ngoại giao hàng đầu của Việt Nam ở đầu thập niên 1980 như các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyễn Giáp, Nguyễn Cơ Thạch...
Derek Tonkin: Tôi là đại sứ thứ năm của Anh quốc tại Việt Nam sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ vào năm 1973. Vài đồng nghiệp của tôi trước đó chỉ đảm nhiệm 6 tháng. Nhưng một đồng nghiệp khác của tôi đã ở đó trong 2 năm, nên tôi quyết định là tôi cũng sẽ ở lại trong hai năm.
Tất nhiên tôi tới Việt Nam trong một giai đoạn đặc biệt khó khăn, những năm của thập niên 1980. Lúc đó Việt Nam đã chiếm đóng Campuchia với lý do mà tôi nghĩ là tôi hiểu rất rõ, dù có thể ở phương Tây một số người đã chưa rõ lắm.
Trung Quốc như quý vị biết trong năm 1979 đã tấn công Việt Nam, họ gọi đó là sự trừng phạt, nhưng đúng ra có thể coi là một cuộc tấn công xâm lược, dù Trung Quốc có giải thích theo cách khác được hiểu như là chiến thuật quân sự của họ.
Khi tôi tới nơi, một trong những điều đầu tiên tôi nhớ là đã được thông báo rằng tôi cần luôn chuẩn bị để rời tòa đại sứ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, và thông báo này cũng đã được đưa ra cho những người nước ngoài ở Việt Nam, trong trường hợp quân đội Trung Quốc tràn xuống.
Tôi đã rất vui để nói rằng việc đó đã không xảy ra, thế nhưng ít nhất nó lại làm cho tôi ngay lập tức liên hệ với vấn đề mà Việt Nam khi đó đang đối diện.
Và vấn đề Campuchia đã thực sự bao trùm nhiệm kỳ hai năm của tôi ở Việt Nam, lúc đó có rất ít quan hệ thương mại song phương. Tôi cũng gặp rất ít khách thăm.
Nhưng ít nhất Anh quốc đã không tham gia ở phe của người Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Chúng tôi đã luôn cố gắng giữ một mức độ độc lập có thể được, mặc dù cũng có bằng chứng rằng một vài cá nhân người Anh có thể đã tham dự ở phía của người Mỹ.
- 'VN lúc đó ở đỉnh cao thế giới'
- Tranh chấp chủ quyền Biển Đông
- Ấn tượng về chính khách VN
- Dân chủ 'là đóa hoa mong manh'
"Cáo buộc" duy nhất về sự tham gia của người Anh trong cuộc chiến Việt Nam là một lần tôi trò chuyện thân tình với Ngoại trưởng Việt Nam ông Nguyễn Cơ Thạch rằng lá cờ của Anh quốc đã được đưa vào cùng với các lá cờ của một liên minh trong một bảo tàng ở Hà Nội, tôi nghĩ là Bảo tàng Cách mạng.
Đó là các lá cờ của liên minh các nước phương Tây được cho là giúp đỡ cho chính quyền "bù nhìn" Nam Việt Nam. Tôi nói rằng thực tế là chúng tôi đã không tham gia. Và tôi nói thêm rằng sẽ là một điều tốt nếu tên tuổi của nước Anh có thể được bỏ ra khỏi đó.
Bốn ngày sau đó, Nguyễn Cơ Thạch trở lại gặp tôi và nói: "Ông có thể nhận ra là chúng tôi đã gỡ bỏ lá cờ. Tuy nhiên, chúng tôi đã phát hiện ra rằng có một thời điểm vào năm 1968, chúng tôi tin rằng các ông đã gửi một số chó nghiệp vụ cảnh sát để huấn luyện ở Việt Nam."
Và ông ta nói: "Tôi có thể cho ông biết đó có lẽ là lý do vì sao mà chúng đã có mặt ở đó." Ông Thạch cũng cho tôi biết là có lẽ lá cờ đã được lấy ra từ tòa lãnh sự của Sứ quán Anh ở Sài Gòn.
Trên thực tế mối quan hệ của chúng tôi với Việt Nam luôn được đặt trên cơ sở lợi ích song phương và đặc biệt là tính độc lập. Điều duy nhất đặc biệt giữa Anh quốc và Việt Nam là giữa hai bên không bao giờ xảy ra chiến tranh. Không có bất cứ một cơ hội nào trong lịch sử mà trong đó quân đội của Việt Nam đụng đầu với quân lực Anh.
"Vì sao ư? chúng tôi đã đánh thắng Trung Quốc, chúng tôi đã chiến thắng người Pháp và chúng tôi đã chiến thắng người Mỹ, cho nên chúng tôi thực sự cảm thấy rằng chúng tôi ở đỉnh cao của Thế giới"
"Một điều khác nữa mà tôi nhớ về thời gian tôi ở Việt Nam là cuộc sống không dễ dàng gì. Lúc đó vẫn còn cấm vận toàn phần của Hoa Kỳ. Hàng hóa rất thiếu. Qua các mùa, chúng tôi có kha khá thực phẩm và rau quả, nhưng chúng tôi phải nhập khẩu rất nhiều thực phẩm từ Bangkok. Người dân sống rất khó khăn.
Nhưng có một điều mà tôi ấn tượng nhất là dù cuộc sống khó khăn thế nào, người dân vẫn luôn giữ một nụ cười.
Cuộc sống rất khó khăn, thiếu thuốc men, hầu như thiếu thốn đủ thứ, nhưng nếu bạn nhìn vào những gương mặt của họ, thì ở đâu họ cũng mỉm cười.
Những hình ảnh ấy gợi cho tôi nhớ lại thời kỳ chiến tranh ở nước Anh. Khi đó sức khỏe mọi người lành mạnh hơn bây giờ vì chế độ ăn uống của mọi người tốt hơn vì mọi người không bỏ nhiều tiền vào sô-cô-la và những thứ khác.
Trở lại với Việt Nam, lúc đó chiến tranh đã kết thúc, bốn năm sau khi đất nước thống nhất, tôi nghĩ mọi người cảm thấy hạnh phúc.
Và nhìn chung lúc đó trong chính phủ Việt Nam, mọi người có cảm nghĩ là Việt Nam đã chiến thắng: "Vì sao ư? chúng tôi đã đánh thắng Trung Quốc, chúng tôi đã chiến thắng người Pháp và chúng tôi đã chiến thắng người Mỹ, cho nên chúng tôi thực sự cảm thấy rằng chúng tôi ở đỉnh cao của thế giới."
'Sai lầm ở Campuchia'
BBC: Ông có còn giữ quan điểm cho rằng sau khi can thiệp vào Campuchia, quân đội Việt Nam ở lại Campuchia khoảng 10 năm và đó là một sai lầm lớn của chính quyền Việt Nam? Lúc đó, các đoàn ngoại giao ở Hà Nội khi gặp gỡ, có bình luận gì về việc này không?
Một trong những lý do mà tôi được cử tới Hà Nội làm Đại sứ là vì tôi có kinh nghiệm ở Campuchia, tôi đã từng ở đó trong ba năm hồi thập niên 1960. Và tôi cũng có thời gian ở Thái Lan. Do đó tôi có một sự hiểu biết rộng về khu vực.
Tôi nghĩ tôi hiểu khá rõ lý do của việc vì sao Việt Nam cảm thấy họ không còn có thể chịu đựng được hơn nữa mối đe dọa từ phía Khmer Đỏ. Các vị có thể nhớ rằng về gốc gác, lúc đầu Khmer Đỏ là đồng minh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cái tên Khmer Đỏ cũng là do Hoàng thân Sihanouk đặt, chỉ những người khuynh tả. Nhưng rồi Khmer Đỏ trở thành một phe chạy theo ý thức hệ mà tôi gọi là rất tàn ác. Họ có khát vọng trả thù Việt Nam, đặc biệt với những vùng đất mà trước đó 200-300 năm từng là lãnh thổ của người Khmer, điều gợi cho tôi nhớ tới cái được gọi là Khmer Krom.
"Thật đáng tiếc là họ đã ở lại quá lâu, trong 10 năm, và họ ở lại trong một thế như là sự thể này không thể đảo ngược. Tuy nhiên, Việt Nam đã rời khỏi Campuchia. Họ rời đi dưới áp lực, đặc biệt của các quốc gia còn lại ở Asean"
Nhưng còn đi xa hơn thế nữa, Khmer Đỏ muốn khích động việc lấy lại toàn bộ miền Nam Việt Nam, thậm chí cả Sài Gòn, mà theo họ chính đó cũng là một thành phố cũ của Campuchia, Pren Kor, hay là Thành phố ở trong rừng. Và đã có rất nhiều vụ khiêu khích ở dọc biên giới mà phía Việt Nam nghĩ là họ không còn có thể tha thứ được nữa.
Quý vị cũng có thể nhớ rằng khi Việt Nam xâm lược Campuchia, họ tiến vào với một nhóm người Campuchia khác mà về nguồn gốc cũng là Khmer Đỏ, được gọi là phe Tư lệnh cánh Đông của Pol Pot. Phe này cũng rất cứng rắn, nhưng không cực đoan quá khích như chính quyền Pol Pot ở phần còn lại của Campuchia, và cánh này biết họ là mục tiêu của việc bị Khmer Đỏ loại trừ.
Do đó, Thủ tướng hiện nay của Campuchia, Hun Sen và những người khác như các ông Heng Samrin, Chea Sim cũng đã phải chạy trốn thực sự để thoát hiểm. Trở lại thì ý định của Việt Nam là chấm dứt các hành động khiêu khích mà Việt Nam phải chịu đựng tới lúc đó. Tất nhiên, khi bạn xâm lược một quốc gia khác, sẽ có những hệ lụy quốc tế.
Và vào thời điểm đó chúng ta có thể nhớ rằng đã có quan ngại quốc tế về cuộc xâm lược của Liên Xô ở Afghanistan vào năm 1981, chúng tôi cũng quan ngại về cuộc xâm lược của Argentina ở quần đảo Falkland vào năm 1982. Do đó ý niệm rằng một nước có thể xâm lược một nước khác rất nhạy cảm đối với phương Tây. Do đó chúng tôi chỉ trích rất mạnh.
Nhưng đồng thời, nếu tôi có thể trở lại với Hoàng thân Sihanouk, chính ông nói rằng nếu Việt Nam rút khỏi Campuchia sau 12 tháng và để cho Campuchia tự giải quyết vấn đề của họ, thì họ đã rất được hoan nghênh, bởi vì đó chính xác là ý định ban đầu của cuộc can thiệp, vì dẫu sao một chế độ như của Khmer Đỏ là không thể chấp nhận được.
Tất nhiên, tôi không quá ngây thơ để tin rằng đó là lý do duy nhất Việt Nam đưa quân vào Campuchia, họ cũng có những lý do quan ngại về an ninh, về bất ổn định, và họ cũng luôn tự xem mình là quốc gia đứng đầu ở Đông Dương với Lào và Campuchia. Và nhìn lại từ góc độ này, tôi có thể hiểu vì sao họ tiến vào Campuchia.
Thật đáng tiếc là họ đã ở lại quá lâu, trong 10 năm, và họ ở lại trong một thế như là sự thể này không thể đảo ngược. Tuy nhiên, Việt Nam đã rời khỏi Campuchia. Họ phải đi dưới áp lực, mà đặc biệt từ các quốc gia còn lại ở khối Asean.
No comments:
Post a Comment