Đánh giá chiến lược pháp lý của Trung Quốc ở Biển Đông
VietnamDefence - Mục tiêu của Bắc Kinh: duy trì hòa bình và ổn định khu vực, trong khi thúc đẩy các yêu sách bành trướng. Liệu họ có thể thành công?
Lời dẫn: Bài viết gồm 2 phần của Sean Mirski đánh giá các chiến lược pháp lý của một số nước có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông trong bối cảnh chiến lược rộng lớn hơn. Dưới đây, Sean Mirski xem xét chiến lược của Trung Quốc được thúc đẩy như thế nào bởi những mong muốn trái ngược là vừa duy trì ổn định khu vực lại vừa củng cố quyền kiểm soát trên toàn bộ Biển Đông.
Sean Mirski là sinh viên năm thứ hai tại Trường Luật Harvard, nơi ông làm Trưởng nhóm phụ trách mục Tòa án tối cao của tờ Harvard Law Review. Ông cũng là đồng chủ biên cuốn sách: Trọng tâm của Châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ và trật tự mới đang lên của thế giới (Crux of Asia: China, India and the Emerging Global Order).
>> Có thể bóp chết Trung Quốc bằng phong tỏa đường biển?
Từ nhiều thế kỷ trước, ngư dân Trung Quốc gọi các hòn đảo ở Biển Đông là “những bãi đá nam châm” (từ thạch đường) - một tên gọi ám chỉ sức mạnh bí ẩn cuốn hút những con tàu có số phận hẩm hiu đến những bãi cát ngầm ở đây. Tuy nhiên, ngày nay, Biển Đông lại lôi kéo sự chú ý bởi một thứ rắc rối khác. Trong 6 thập kỷ qua, Biển Đông là trung tâm của một tình trạng rối loạn địa-chính trị bị kích động thúc đẩy bởi quan hệ chính trị giữa các đại cường, chủ nghĩa dân tộc độc hại và trữ lượng dầu khí dồi dào. Sáu bên khác nhau là Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam liên tục tranh chấp chủ quyền các hòn đảo trên Biển Đông và các vùng biển đó.
Trong 6 bên tranh chấp nói trên, Trung Quốc đã trở thành đối thủ nặng ký nhất. Đây là quốc gia tranh chấp có lãnh thổ rộng lớn và hùng mạnh nhất, và cũng là bên đưa ra những yêu sách mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên, hành vi của Bắc Kinh không phải lúc nào cũng phản ánh sức mạnh và tham vọng đang bành trướng của họ. Thay vào đó, chiến lược của Trung Quốc phức tạp hơn, được hình thành chủ yếu bởi mong muốn của Bắc Kinh duy trì hòa bình và ổn định khu vực, trong khi vẫn tiếp tục thúc đẩy những yêu sách bành trướng của họ.
Tình thế lưỡng nan này đã khiến Trung Quốc tập trung vào việc trì hoãn giải quyết xung đột, điều được chứng minh rõ ràng nhất trong chiến lược pháp lý của họ. Nhưng chiến lược này trong những năm gần đây ngày càng trở nên không còn phù hợp khi Trung Quốc trở thành nạn nhân của sự thành công của chính họ. Các bên tranh chấp khác đã nhận ra việc chơi theo các luật chơi của Trung Quốc là nguy hiểm, vì vậy, họ đã chọn cách đối phó với chiến lược trì hoãn của Trung Quốc bằng một tư thế chủ động hơn nhằm thúc đẩy Bắc Kinh phải dừng dây dưa, lòng vòng để đối diện trực tiếp với tình thế lưỡng nan của họ. Trung Quốc đã tìm cách ứng phó và phản ứng của họ đã làm gia tăng căng thẳng trong cả khu vực vì không làm thay đổi được những tính toán của các đối thủ. Trong khi tranh chấp leo thang, Trung Quốc có thể cảm thấy áp lực nổi lên nhằm buộc họ phải từ bỏ chiến lược trì hoãn và tìm kiếm một giải pháp nhanh chóng hơn cho cuộc xung đột này, như các sự kiện đang diễn ra bắt đầu bộc lộ.
Các lợi ích chiến lược đầy mâu thuẫn của Trung Quốc
Trỗi dậy hòa bình
Để hiểu được tình thế nan giải của Bắc Kinh, ta hãy xem xét các lợi ích chiến lược đầy mâu thuẫn của họ. Một mặt, Trung Quốc tìm cách kéo dài chuỗi tăng trưởng nhiều thập kỷ của họ. Các số liệu thống kê quen thuộc: nền kinh tế phát triển bùng nổ với tốc độ trung bình hàng năm gần 10% trong 35 năm qua, và trong thời gian đó, kinh tế Trung Quốc đã có 5 lần tăng trưởng gấp đôi về quy mô. Kể cả khi tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại phần nào, thì nền kinh tế Trung Quốc vẫn có khả năng và thực ra là gần như chắc chắn sẽ vượt qua kinh tế Mỹ trong tương lai gần.
Nhưng, xét về địa-chính trị, sự tăng trưởng của Trung Quốc là tương đối khác thường. Thay vì tuân theo biện chứng của Charles Tilly là “nhà nước tạo ra chiến tranh” và “chiến tranh tạo ra nhà nước”, Bắc Kinh lại tự tham dự vào trật tự kinh tế tự do quốc tế. Khi nhìn lại, quyết định này đã chứng minh lời tiên tri: Trung Quốc bắt đầu khởi sắc kể từ khi nó kết nối vào quá trình toàn cầu hóa do Mỹ đứng đầu.
Tuy nhiên, sự phụ thuộc lẫn nhau trong kinh tế quốc tế không phải bỗng dưng mà có. Để tạo ra sự thần kỳ về thương mại, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cần một môi trường bên ngoài tương đối hòa bình. Các cuộc xung đột có thể phá vỡ tan tành các mối quan hệ kinh tế vốn là trung tâm của một hệ thống thương mại mở và đẩy Trung Quốc cách xa khỏi các đối tác thương mại quan trọng, kể cả khi bản thân Bắc Kinh tìm cách tránh không dính líu vào. Tồi tệ hơn cả là bất kỳ một cuộc xung đột nào trong khu vực cũng có thể tạo ra cho Mỹ cơ hội có thêm nhiều hơn nữa quyền lực chính trị và quân sự trong khu vực - một mối đe dọa đối với tham vọng lâu dài nhằm giành ưu thế (nếu không phải là quyền bá chủ) trong khu vực.
Vì thế, để tiếp tục phát triển, Trung Quốc cần một châu Á ổn định và hòa bình. Do đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố khái quát chính sách của họ trong các ngôn từ “trỗi dậy hòa bình” hoặc “phát triển hòa bình”. Chiến lược này không phải là lời nói suông: Trong ba thập kỷ qua, Bắc Kinh đã dàn xếp được nhiều tranh chấp biên giới; xúc tiến hoạt động ngoại giao khu vực khéo léo; tích cực tham gia vào các tổ chức liên chính phủ khu vực và quốc tế; và ký kết các hiệp định thương mại cùng có lợi trên khắp thế giới. Quả là chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Trung Quốc cũng đã hành xử khá ổn trong lĩnh vực quân sự: Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh gần đây nhất là vào năm 1979, kể từ đó họ chỉ tham gia vào một cuộc đụng độ nhỏ ở Biển (đảo Gạc Ma năm 1988 Johnson South Reef). Tóm lại, Trung Quốc đã cố gắng trở thành một công dân gương mẫu của khu vực, tất cả là nhằm phục vụ các tham vọng kinh tế của họ.
Kiểm soát Biển Đông
Trong khi tham vọng lâu dài của Bắc Kinh khiến họ phải kiềm chế, thì các mục tiêu gần hơn của họ, trong đó có việc giành chủ quyền đối với Biển Đông, lại dẫn dắt nước này đi theo một hướng khác. Trong thế giới lý tưởng của Bắc Kinh, Trung Quốc ngay bây giờ sẽ phải là ông chủ không thể tranh cãi của Biển Đông.
Bắc Kinh tìm cách kiểm soát Biển Đông Nam Á để ứng phó với các mối đe dọa an ninh quốc gia và thúc đẩy các mục tiêu kinh tế của họ. Biển là một điểm yếu chiến lược của Trung Quốc vì đó là tuyến đường xâm lược trong lịch sử và là một mối đe dọa hiện hữu đối với an ninh năng lượng và nền kinh tế định hướng xuất khẩu của Trung Quốc. Kiểm soát được Biển Đông còn mạng lại nhiều lợi ích hữu hình. Biển Đông có trữ lượng cá dồi dào vốn là trụ cột của nhiều nền kinh tế trong khu vực. Dưới đáy đại dương, còn có những tài sản còn giá trị hơn. Mặc dù các chuyên gia có ý kiến khác nhau về quy mô của kho của cải tiềm tàng dưới đáy biển, tất cả đều nhất trí rằng, ở đó trữ lượng dầu mỏ và khí đốt đủ để bất kỳ quốc gia nào tiếp giáp ở đó đều muốn chiếm hữu.
Những yêu cầu chiến lược này được củng cố bởi tình hình chính trị trong nước của Trung Quốc. Tranh chấp biển đã trở nên đan xen chặt chẽ với chủ nghĩa dân tộc của người Trung Quốc. Kết quả là Biển Đông không chỉ có ý nghĩa về mặt chủ quyền, mà còn xác định căn tính của Trung Quốc với tư cách một quốc gia. Và rắc rối hơn nữa là mọi hành động từ bỏ các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc cũng sẽ gợi lại liên tưởng bất lợi về sự yếu kém của Trung Quốc trước các đế quốc hung hãn trong giai đoạn gọi là “thế kỷ sỉ nhục” của đất nước này. Vì vậy, ngay cả khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc muốn từ bỏ các yêu sách ở Biển Đông, họ vẫn sẽ bị áp lực không làm thế do các phản ứng dữ dội tất yếu ở trong nước. Thay vì thỏa hiệp, Bắc Kinh cảm thấy ngày càng bị áp lực bởi một công chúng dân tộc chủ nghĩa để phải hành động quả quyết trong quan hệ với các bên tranh chấp khác.
Tình thế lưỡng nan của Trung Quốc
Như vậy, các lợi ích chiến lược của Trung Quốc thường mâu thuẫn với nhau. Một mặt, Bắc Kinh muốn giải quyết tranh chấp trên Biển Đông càng nhanh chóng và hòa bình càng tốt. Tranh chấp đã cản trở việc hội nhập khu vực sâu rộng hơn, và trong những năm gần đây, Trung Quốc đã nổi tiếng vì cách hành xử hiếu chiến, vốn đã làm nguội lạnh các mối quan hệ trong khu vực của họ. Tuy nhiên, mặt khác, Trung Quốc cũng không hề muốn mất quyền kiểm soát một khu vực chiến lược quan trọng như vậy. Trung Quốc cũng bị trói buộc bởi một công chúng đầy tinh thần dân tộc chủ nghĩa và thường là hiếu chiến luôn nghi ngờ bất kỳ hành vi nào được coi là nhượng bộ hoặc yếu đuối nào về phía Trung Quốc. Tóm lại, Trung Quốc có thể cố gắng giải quyết tranh chấp thông qua thỏa hiệp hoặc xâm lược, nhưng chẳng lựa chọn nào là hấp dẫn cả.
Vì vậy, thay vì cố gắng giải quyết xung đột, Bắc Kinh đã né tránh và áp dụng chiến lược trì hoãn. Bị kẹt giữa các lợi ích chiến lược trái ngược nhau, Trung Quốc đã tìm cách duy trì sự kiểm soát vừa đủ để bảo vệ các yêu sách của họ mà không tạo ra sự khống chế quá lớn khiến các bên tranh chấp khác trở nên lo ngại. Vì vậy, trong khi Trung Quốc sẽ luôn bảo vệ các yêu sách của mình chống sự vi phạm hung hăng của các quốc gia khác, nước này thường tìm cách tránh làm mất ổn định hiện trạng. Tất nhiên, chiến lược trì hoãn cũng nhằm tận dụng ưu thế lớn nhất của Trung Quốc: một sức mạnh đang bành trướng và con đường tăng trưởng lâu dài. Trung Quốc cần gì phải cố giải quyết xung đột vào lúc này, khi mà vị thế đàm phán của họ ngày một cải thiện?
Chiến lược pháp lý của Trung Quốc trong cuộc tranh chấp trên Biển Đông
Ví dụ tốt nhất cho chiến lược trì hoãn trong thực tế chính là chiến lược pháp lý của Trung Quốc. Chiến lược này là sự kết hợp cẩn thận giữa các các nội dung yêu sách pháp lý và chiến thuật đàm phán, tất cả đều nhằm giữ nguyên hiện trạng, trong khi vẫn duy trì sự linh hoạt tối đa trong tương lai.
Trung Quốc đã bám chặt lấy cách diễn giải mơ hồ như một trụ cột chủ chốt trong chiến lược pháp lý của họ. Ngay cả hiện nay, sau nhiều thập kỷ tranh cãi, phạm vi các yêu sách của Trung Quốc vẫn chưa rõ ràng. Trong thực tế, Trung Quốc chỉ mới khuấy động vùng biển trong những năm gần đây khi họ chính thức đưa ra cái gọi là “đường chín đoạn” đầy tai tiếng. Năm 2009, Malaysia và Việt Nam đã nộp bộ hồ sơ chung đến cơ quan LHQ nhằm xác định ranh giới bên ngoài của các tuyên bố thềm lục địa của mình. Ngay hôm sau, Trung Quốc đã đáp trả bằng một văn bản phản đối tuyên bố của hai nước nói trên. Văn bản của phía Trung Quốc khẳng định một cách khá mập mờ rằng, “ Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận, và có các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan, cũng như thềm lục địa và cả lòng đất ở dưới đáy biển (xem bản đồ đính kèm)”. Tấm bản đồ đính kèm cho thấy, một đường chín đoạn bắt đầu từ bờ biển của Trung Quốc và bao gồm gần như toàn bộ Biển Đông. Kể từ đó, các quốc gia và các nhà bình luận đều tự hỏi, nếu quả thật có ý nghĩa gì đó, thì thực ra đường chín đoạn chỉ cái gì vậy? Có vẻ khá rõ là Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với tất cả các hòn đảo nằm trong ranh giới mênh mông của đường chín đoạn. Tuy nhiên, điều kém rõ ràng hơn là họ có đòi chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển bao quanh bởi đường chín đoạn ấy hay không.
Đòi hỏi điều này sẽ là sự vi phạm trắng trợn các nghĩa vụ quốc tế của phía Trung Quốc. Theo luật pháp quốc tế, các quốc gia bị ràng buộc bởi nguyên tắc “la terre domine la mer” (đất thống trị biển), tức nguyên tắc chủ quyền đối với vùng biển phải xuất phát từ chủ quyền đối với đất ở gần đó, chứ không phải là ngược lại. Phù hợp với nguyên tắc này, Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) cho phép các quốc gia kiểm soát vùng biển nội thủy chỉ trong một khoảng cách nhất định tính từ lãnh thổ chủ quyền của họ. Ngay cả dưới cách diễn giải rộng rãi nhất đối với UNCLOS, thì Bắc Kinh cũng không thể đòi hỏi một cách hợp pháp quyền kiểm soát phần lớn vùng biển được bao bọc bởi đường chín đoạn.
Đặc biệt là ở Mỹ, nhiều nhà bình luận cho rằng, Trung Quốc diễn giải đường chín đoạn quá bành trường. Nhưng Bắc Kinh chưa bao giờ chính thức làm rõ cách diễn giải nào họ muốn áp dụng. Sự từ chối của họ thật ngạc nhiên, nhất là vì gần như tất cả các nhà bình luận về cuộc tranh chấp ở Biển Đông, kể cả một số học giả Trung Quốc, đã hối thúc Trung Quốc làm rõ những yêu sách pháp lý mơ hồ của họ.
Thay vào đó, chính phủ Trung Quốc cố tình áp dụng chính sách pháp lý mơ hồ có ý đồ về phạm vi các yêu sách lãnh thổ của mình. Sự “mơ hồ chiến lược” chỉ là một khía cạnh của chiến lược trì hoãn lớn hơn của Trung Quốc. Đường chín đoạn tạo ra các không gian pháp lý cho những cách diễn giải bành trướng hơn của các yêu sách trong tương lai của Trung Quốc, nhưng họ không nhất thiết phải nói ra rõ ràng ngay vào lúc này. Kết quả là Trung Quốc giữ được sự linh hoạt một cách lâu dài, trong khi vẫn tránh được những trả giá ngắn hạn cho việc thúc đẩy các yêu sách không thực tế. Tất nhiên, ngay cả một chính sách mơ hồ chiến lược cũng có cái giá của nó - vì dựa vào đường chín đoạn, Trung Quốc đã bị chỉ trích khắp nơi, gần đây nhất là Mỹ. Nhưng việc Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận những cái giá này là bằng chứng mạnh mẽ cho thấy sự miễn cưỡng của họ trong việc lựa chọn dứt khoát chính sách hoặc là thỏa hiệp hoặc là xâm lược.
Chiến lược trì hoãn của Trung Quốc cũng ảnh hưởng đến cách thức Trung Quốc đàm phán về các yêu sách pháp lý của họ. Trước hết, Trung Quốc đã cố hết sức để tránh việc giải quyết xung đột. Trong khi, họ đã chính thức cam kết giải quyết vấn đề một cách hòa bình, trên thực tế Bắc Kinh lại không ngừng cổ vũ cho chính sách “hợp tác cùng khai thác”, theo đó các bên tranh chấp trì hoãn giải quyết các tranh chấp chủ quyền cho đến khi các điều kiện “chín muồi”. Cho đến lúc đó, tất cả các bên nên cùng nhau hợp tác khai thác các nguồn tài nguyên trên Biển Đông. Mặc dù, cách tiếp cận này hầu như chẳng dụ dỗ được ai, nó vẫn cho phép Trung Quốc tránh được tình thế lưỡng nan của mình khi được áp dụng: Bắc Kinh có thể thúc đẩy hòa bình trong khu vực, trong khi vẫn khai thác được các nguồn tài nguyên của Biển Đông và giữ nguyên các yêu sách chủ quyền của họ.
Một chiến thuật đàm phán khác là Bắc Kinh luôn đòi giải quyết tranh chấp trên Biển Đông trên cơ sở song phương. Theo sự khôn ngoan thông thường, Trung Quốc muốn thương lượng tay đôi chứ không muốn đàm phán đa phương bởi vì Trung Quốc có thể dễ dàng hơn dùng sức mạnh để gây áp lực với một đối tác đàm phán duy nhất. Nhưng đàm phán song phương cũng đem lại một lợi ích khác mà có lẽ còn quan trọng hơn là nó cho phép Bắc Kinh kiểm soát nhịp độ đàm phán. Ngược lại, các cuộc đàm phán đa phương khiến các bên tranh chấp khác dễ thỏa thuận với nhau hơn để buộc Trung Quốc phải hành động. Ngay cả khi đã không thể ngăn chặn các bên khác có thỏa thuận riêng, thì Trung Quốc cũng đã cản trở tiến trình đàm phán bằng cách thu phục từng quốc gia riêng lẻ và lợi dụng những chia rẽ nội bộ. (Còn tiếp)
Sean Mirski là sinh viên năm thứ hai tại Trường Luật Harvard, nơi ông làm Trưởng nhóm phụ trách mục Tòa án tối cao của tờ Harvard Law Review. Ông cũng là đồng chủ biên cuốn sách: Trọng tâm của Châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ và trật tự mới đang lên của thế giới (Crux of Asia: China, India and the Emerging Global Order).
Mục tiêu của Bắc Kinh: duy trì hòa bình và ổn định khu vực, trong khi thúc đẩy các yêu sách bành trướng. Liệu họ có thể thành công? |
>> Có thể bóp chết Trung Quốc bằng phong tỏa đường biển?
Từ nhiều thế kỷ trước, ngư dân Trung Quốc gọi các hòn đảo ở Biển Đông là “những bãi đá nam châm” (từ thạch đường) - một tên gọi ám chỉ sức mạnh bí ẩn cuốn hút những con tàu có số phận hẩm hiu đến những bãi cát ngầm ở đây. Tuy nhiên, ngày nay, Biển Đông lại lôi kéo sự chú ý bởi một thứ rắc rối khác. Trong 6 thập kỷ qua, Biển Đông là trung tâm của một tình trạng rối loạn địa-chính trị bị kích động thúc đẩy bởi quan hệ chính trị giữa các đại cường, chủ nghĩa dân tộc độc hại và trữ lượng dầu khí dồi dào. Sáu bên khác nhau là Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam liên tục tranh chấp chủ quyền các hòn đảo trên Biển Đông và các vùng biển đó.
Trong 6 bên tranh chấp nói trên, Trung Quốc đã trở thành đối thủ nặng ký nhất. Đây là quốc gia tranh chấp có lãnh thổ rộng lớn và hùng mạnh nhất, và cũng là bên đưa ra những yêu sách mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên, hành vi của Bắc Kinh không phải lúc nào cũng phản ánh sức mạnh và tham vọng đang bành trướng của họ. Thay vào đó, chiến lược của Trung Quốc phức tạp hơn, được hình thành chủ yếu bởi mong muốn của Bắc Kinh duy trì hòa bình và ổn định khu vực, trong khi vẫn tiếp tục thúc đẩy những yêu sách bành trướng của họ.
Tình thế lưỡng nan này đã khiến Trung Quốc tập trung vào việc trì hoãn giải quyết xung đột, điều được chứng minh rõ ràng nhất trong chiến lược pháp lý của họ. Nhưng chiến lược này trong những năm gần đây ngày càng trở nên không còn phù hợp khi Trung Quốc trở thành nạn nhân của sự thành công của chính họ. Các bên tranh chấp khác đã nhận ra việc chơi theo các luật chơi của Trung Quốc là nguy hiểm, vì vậy, họ đã chọn cách đối phó với chiến lược trì hoãn của Trung Quốc bằng một tư thế chủ động hơn nhằm thúc đẩy Bắc Kinh phải dừng dây dưa, lòng vòng để đối diện trực tiếp với tình thế lưỡng nan của họ. Trung Quốc đã tìm cách ứng phó và phản ứng của họ đã làm gia tăng căng thẳng trong cả khu vực vì không làm thay đổi được những tính toán của các đối thủ. Trong khi tranh chấp leo thang, Trung Quốc có thể cảm thấy áp lực nổi lên nhằm buộc họ phải từ bỏ chiến lược trì hoãn và tìm kiếm một giải pháp nhanh chóng hơn cho cuộc xung đột này, như các sự kiện đang diễn ra bắt đầu bộc lộ.
Các lợi ích chiến lược đầy mâu thuẫn của Trung Quốc
Trỗi dậy hòa bình
Để hiểu được tình thế nan giải của Bắc Kinh, ta hãy xem xét các lợi ích chiến lược đầy mâu thuẫn của họ. Một mặt, Trung Quốc tìm cách kéo dài chuỗi tăng trưởng nhiều thập kỷ của họ. Các số liệu thống kê quen thuộc: nền kinh tế phát triển bùng nổ với tốc độ trung bình hàng năm gần 10% trong 35 năm qua, và trong thời gian đó, kinh tế Trung Quốc đã có 5 lần tăng trưởng gấp đôi về quy mô. Kể cả khi tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại phần nào, thì nền kinh tế Trung Quốc vẫn có khả năng và thực ra là gần như chắc chắn sẽ vượt qua kinh tế Mỹ trong tương lai gần.
Nhưng, xét về địa-chính trị, sự tăng trưởng của Trung Quốc là tương đối khác thường. Thay vì tuân theo biện chứng của Charles Tilly là “nhà nước tạo ra chiến tranh” và “chiến tranh tạo ra nhà nước”, Bắc Kinh lại tự tham dự vào trật tự kinh tế tự do quốc tế. Khi nhìn lại, quyết định này đã chứng minh lời tiên tri: Trung Quốc bắt đầu khởi sắc kể từ khi nó kết nối vào quá trình toàn cầu hóa do Mỹ đứng đầu.
Tuy nhiên, sự phụ thuộc lẫn nhau trong kinh tế quốc tế không phải bỗng dưng mà có. Để tạo ra sự thần kỳ về thương mại, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cần một môi trường bên ngoài tương đối hòa bình. Các cuộc xung đột có thể phá vỡ tan tành các mối quan hệ kinh tế vốn là trung tâm của một hệ thống thương mại mở và đẩy Trung Quốc cách xa khỏi các đối tác thương mại quan trọng, kể cả khi bản thân Bắc Kinh tìm cách tránh không dính líu vào. Tồi tệ hơn cả là bất kỳ một cuộc xung đột nào trong khu vực cũng có thể tạo ra cho Mỹ cơ hội có thêm nhiều hơn nữa quyền lực chính trị và quân sự trong khu vực - một mối đe dọa đối với tham vọng lâu dài nhằm giành ưu thế (nếu không phải là quyền bá chủ) trong khu vực.
Vì thế, để tiếp tục phát triển, Trung Quốc cần một châu Á ổn định và hòa bình. Do đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố khái quát chính sách của họ trong các ngôn từ “trỗi dậy hòa bình” hoặc “phát triển hòa bình”. Chiến lược này không phải là lời nói suông: Trong ba thập kỷ qua, Bắc Kinh đã dàn xếp được nhiều tranh chấp biên giới; xúc tiến hoạt động ngoại giao khu vực khéo léo; tích cực tham gia vào các tổ chức liên chính phủ khu vực và quốc tế; và ký kết các hiệp định thương mại cùng có lợi trên khắp thế giới. Quả là chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Trung Quốc cũng đã hành xử khá ổn trong lĩnh vực quân sự: Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh gần đây nhất là vào năm 1979, kể từ đó họ chỉ tham gia vào một cuộc đụng độ nhỏ ở Biển (đảo Gạc Ma năm 1988 Johnson South Reef). Tóm lại, Trung Quốc đã cố gắng trở thành một công dân gương mẫu của khu vực, tất cả là nhằm phục vụ các tham vọng kinh tế của họ.
Kiểm soát Biển Đông
Trong khi tham vọng lâu dài của Bắc Kinh khiến họ phải kiềm chế, thì các mục tiêu gần hơn của họ, trong đó có việc giành chủ quyền đối với Biển Đông, lại dẫn dắt nước này đi theo một hướng khác. Trong thế giới lý tưởng của Bắc Kinh, Trung Quốc ngay bây giờ sẽ phải là ông chủ không thể tranh cãi của Biển Đông.
Bắc Kinh tìm cách kiểm soát Biển Đông Nam Á để ứng phó với các mối đe dọa an ninh quốc gia và thúc đẩy các mục tiêu kinh tế của họ. Biển là một điểm yếu chiến lược của Trung Quốc vì đó là tuyến đường xâm lược trong lịch sử và là một mối đe dọa hiện hữu đối với an ninh năng lượng và nền kinh tế định hướng xuất khẩu của Trung Quốc. Kiểm soát được Biển Đông còn mạng lại nhiều lợi ích hữu hình. Biển Đông có trữ lượng cá dồi dào vốn là trụ cột của nhiều nền kinh tế trong khu vực. Dưới đáy đại dương, còn có những tài sản còn giá trị hơn. Mặc dù các chuyên gia có ý kiến khác nhau về quy mô của kho của cải tiềm tàng dưới đáy biển, tất cả đều nhất trí rằng, ở đó trữ lượng dầu mỏ và khí đốt đủ để bất kỳ quốc gia nào tiếp giáp ở đó đều muốn chiếm hữu.
Những yêu cầu chiến lược này được củng cố bởi tình hình chính trị trong nước của Trung Quốc. Tranh chấp biển đã trở nên đan xen chặt chẽ với chủ nghĩa dân tộc của người Trung Quốc. Kết quả là Biển Đông không chỉ có ý nghĩa về mặt chủ quyền, mà còn xác định căn tính của Trung Quốc với tư cách một quốc gia. Và rắc rối hơn nữa là mọi hành động từ bỏ các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc cũng sẽ gợi lại liên tưởng bất lợi về sự yếu kém của Trung Quốc trước các đế quốc hung hãn trong giai đoạn gọi là “thế kỷ sỉ nhục” của đất nước này. Vì vậy, ngay cả khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc muốn từ bỏ các yêu sách ở Biển Đông, họ vẫn sẽ bị áp lực không làm thế do các phản ứng dữ dội tất yếu ở trong nước. Thay vì thỏa hiệp, Bắc Kinh cảm thấy ngày càng bị áp lực bởi một công chúng dân tộc chủ nghĩa để phải hành động quả quyết trong quan hệ với các bên tranh chấp khác.
Tình thế lưỡng nan của Trung Quốc
Như vậy, các lợi ích chiến lược của Trung Quốc thường mâu thuẫn với nhau. Một mặt, Bắc Kinh muốn giải quyết tranh chấp trên Biển Đông càng nhanh chóng và hòa bình càng tốt. Tranh chấp đã cản trở việc hội nhập khu vực sâu rộng hơn, và trong những năm gần đây, Trung Quốc đã nổi tiếng vì cách hành xử hiếu chiến, vốn đã làm nguội lạnh các mối quan hệ trong khu vực của họ. Tuy nhiên, mặt khác, Trung Quốc cũng không hề muốn mất quyền kiểm soát một khu vực chiến lược quan trọng như vậy. Trung Quốc cũng bị trói buộc bởi một công chúng đầy tinh thần dân tộc chủ nghĩa và thường là hiếu chiến luôn nghi ngờ bất kỳ hành vi nào được coi là nhượng bộ hoặc yếu đuối nào về phía Trung Quốc. Tóm lại, Trung Quốc có thể cố gắng giải quyết tranh chấp thông qua thỏa hiệp hoặc xâm lược, nhưng chẳng lựa chọn nào là hấp dẫn cả.
Vì vậy, thay vì cố gắng giải quyết xung đột, Bắc Kinh đã né tránh và áp dụng chiến lược trì hoãn. Bị kẹt giữa các lợi ích chiến lược trái ngược nhau, Trung Quốc đã tìm cách duy trì sự kiểm soát vừa đủ để bảo vệ các yêu sách của họ mà không tạo ra sự khống chế quá lớn khiến các bên tranh chấp khác trở nên lo ngại. Vì vậy, trong khi Trung Quốc sẽ luôn bảo vệ các yêu sách của mình chống sự vi phạm hung hăng của các quốc gia khác, nước này thường tìm cách tránh làm mất ổn định hiện trạng. Tất nhiên, chiến lược trì hoãn cũng nhằm tận dụng ưu thế lớn nhất của Trung Quốc: một sức mạnh đang bành trướng và con đường tăng trưởng lâu dài. Trung Quốc cần gì phải cố giải quyết xung đột vào lúc này, khi mà vị thế đàm phán của họ ngày một cải thiện?
Chiến lược pháp lý của Trung Quốc trong cuộc tranh chấp trên Biển Đông
Ví dụ tốt nhất cho chiến lược trì hoãn trong thực tế chính là chiến lược pháp lý của Trung Quốc. Chiến lược này là sự kết hợp cẩn thận giữa các các nội dung yêu sách pháp lý và chiến thuật đàm phán, tất cả đều nhằm giữ nguyên hiện trạng, trong khi vẫn duy trì sự linh hoạt tối đa trong tương lai.
Trung Quốc đã bám chặt lấy cách diễn giải mơ hồ như một trụ cột chủ chốt trong chiến lược pháp lý của họ. Ngay cả hiện nay, sau nhiều thập kỷ tranh cãi, phạm vi các yêu sách của Trung Quốc vẫn chưa rõ ràng. Trong thực tế, Trung Quốc chỉ mới khuấy động vùng biển trong những năm gần đây khi họ chính thức đưa ra cái gọi là “đường chín đoạn” đầy tai tiếng. Năm 2009, Malaysia và Việt Nam đã nộp bộ hồ sơ chung đến cơ quan LHQ nhằm xác định ranh giới bên ngoài của các tuyên bố thềm lục địa của mình. Ngay hôm sau, Trung Quốc đã đáp trả bằng một văn bản phản đối tuyên bố của hai nước nói trên. Văn bản của phía Trung Quốc khẳng định một cách khá mập mờ rằng, “ Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận, và có các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan, cũng như thềm lục địa và cả lòng đất ở dưới đáy biển (xem bản đồ đính kèm)”. Tấm bản đồ đính kèm cho thấy, một đường chín đoạn bắt đầu từ bờ biển của Trung Quốc và bao gồm gần như toàn bộ Biển Đông. Kể từ đó, các quốc gia và các nhà bình luận đều tự hỏi, nếu quả thật có ý nghĩa gì đó, thì thực ra đường chín đoạn chỉ cái gì vậy? Có vẻ khá rõ là Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với tất cả các hòn đảo nằm trong ranh giới mênh mông của đường chín đoạn. Tuy nhiên, điều kém rõ ràng hơn là họ có đòi chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển bao quanh bởi đường chín đoạn ấy hay không.
Đòi hỏi điều này sẽ là sự vi phạm trắng trợn các nghĩa vụ quốc tế của phía Trung Quốc. Theo luật pháp quốc tế, các quốc gia bị ràng buộc bởi nguyên tắc “la terre domine la mer” (đất thống trị biển), tức nguyên tắc chủ quyền đối với vùng biển phải xuất phát từ chủ quyền đối với đất ở gần đó, chứ không phải là ngược lại. Phù hợp với nguyên tắc này, Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) cho phép các quốc gia kiểm soát vùng biển nội thủy chỉ trong một khoảng cách nhất định tính từ lãnh thổ chủ quyền của họ. Ngay cả dưới cách diễn giải rộng rãi nhất đối với UNCLOS, thì Bắc Kinh cũng không thể đòi hỏi một cách hợp pháp quyền kiểm soát phần lớn vùng biển được bao bọc bởi đường chín đoạn.
Đặc biệt là ở Mỹ, nhiều nhà bình luận cho rằng, Trung Quốc diễn giải đường chín đoạn quá bành trường. Nhưng Bắc Kinh chưa bao giờ chính thức làm rõ cách diễn giải nào họ muốn áp dụng. Sự từ chối của họ thật ngạc nhiên, nhất là vì gần như tất cả các nhà bình luận về cuộc tranh chấp ở Biển Đông, kể cả một số học giả Trung Quốc, đã hối thúc Trung Quốc làm rõ những yêu sách pháp lý mơ hồ của họ.
Thay vào đó, chính phủ Trung Quốc cố tình áp dụng chính sách pháp lý mơ hồ có ý đồ về phạm vi các yêu sách lãnh thổ của mình. Sự “mơ hồ chiến lược” chỉ là một khía cạnh của chiến lược trì hoãn lớn hơn của Trung Quốc. Đường chín đoạn tạo ra các không gian pháp lý cho những cách diễn giải bành trướng hơn của các yêu sách trong tương lai của Trung Quốc, nhưng họ không nhất thiết phải nói ra rõ ràng ngay vào lúc này. Kết quả là Trung Quốc giữ được sự linh hoạt một cách lâu dài, trong khi vẫn tránh được những trả giá ngắn hạn cho việc thúc đẩy các yêu sách không thực tế. Tất nhiên, ngay cả một chính sách mơ hồ chiến lược cũng có cái giá của nó - vì dựa vào đường chín đoạn, Trung Quốc đã bị chỉ trích khắp nơi, gần đây nhất là Mỹ. Nhưng việc Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận những cái giá này là bằng chứng mạnh mẽ cho thấy sự miễn cưỡng của họ trong việc lựa chọn dứt khoát chính sách hoặc là thỏa hiệp hoặc là xâm lược.
Chiến lược trì hoãn của Trung Quốc cũng ảnh hưởng đến cách thức Trung Quốc đàm phán về các yêu sách pháp lý của họ. Trước hết, Trung Quốc đã cố hết sức để tránh việc giải quyết xung đột. Trong khi, họ đã chính thức cam kết giải quyết vấn đề một cách hòa bình, trên thực tế Bắc Kinh lại không ngừng cổ vũ cho chính sách “hợp tác cùng khai thác”, theo đó các bên tranh chấp trì hoãn giải quyết các tranh chấp chủ quyền cho đến khi các điều kiện “chín muồi”. Cho đến lúc đó, tất cả các bên nên cùng nhau hợp tác khai thác các nguồn tài nguyên trên Biển Đông. Mặc dù, cách tiếp cận này hầu như chẳng dụ dỗ được ai, nó vẫn cho phép Trung Quốc tránh được tình thế lưỡng nan của mình khi được áp dụng: Bắc Kinh có thể thúc đẩy hòa bình trong khu vực, trong khi vẫn khai thác được các nguồn tài nguyên của Biển Đông và giữ nguyên các yêu sách chủ quyền của họ.
Một chiến thuật đàm phán khác là Bắc Kinh luôn đòi giải quyết tranh chấp trên Biển Đông trên cơ sở song phương. Theo sự khôn ngoan thông thường, Trung Quốc muốn thương lượng tay đôi chứ không muốn đàm phán đa phương bởi vì Trung Quốc có thể dễ dàng hơn dùng sức mạnh để gây áp lực với một đối tác đàm phán duy nhất. Nhưng đàm phán song phương cũng đem lại một lợi ích khác mà có lẽ còn quan trọng hơn là nó cho phép Bắc Kinh kiểm soát nhịp độ đàm phán. Ngược lại, các cuộc đàm phán đa phương khiến các bên tranh chấp khác dễ thỏa thuận với nhau hơn để buộc Trung Quốc phải hành động. Ngay cả khi đã không thể ngăn chặn các bên khác có thỏa thuận riêng, thì Trung Quốc cũng đã cản trở tiến trình đàm phán bằng cách thu phục từng quốc gia riêng lẻ và lợi dụng những chia rẽ nội bộ. (Còn tiếp)
Nguồn: Từ Thạch Đường: Đánh giá chiến lược pháp lý của Trung Quốc ở Biển Đông (Magnetic Rocks: Assessing China's Legal Strategy in the South China Sea) / Sean Mirski // The National Interest, 19.5.2014.
Các tin khác
- Trung Quốc sợ mất nguồn công nghệ quân sự trọng yếu Ukraine
- Tử huyệt của phòng không Trung Quốc
- Vũ khí vô hình xuyên thủng lá chắn tên lửa Aegis
- Angela Merkel chơi xỏ Tập Cận Bình
- Tu-22M3 xé nát lá chắn tên lửa châu Âu
- Nga cho phép Trung Quốc sao chép Su-35, S-400
- Obama mất uy tín, Syria ăn đòn?
- 6 nguyên nhân Mỹ không dám chiến Nga
- Ba kịch bản tương lai cho Kiev
- Của Caesar phải trả lại cho Caesar: Crimea quyết định gia nhập Nga
No comments:
Post a Comment