Theo tổ chức Hội nghị Thương mại và Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNCTAD), trong năm 2010, khoảng 8,4 tỷ tấn hàng hóa được vận chuyển qua khu vực Biển Đông, tức là gần bằng một nửa tổng khối lượng chuyên chở hàng hóa toàn thế giới.
Bộ Thương mại Mỹ cho biết, trong năm 2013, Hoa Kỳ xuất khẩu 79 tỷ đô la hàng hóa sang các nước trong vùng Biển Đông và nhập khẩu 127 tỷ đô la từ những quốc gia này. Đô đốc hải quân Mỹ Robert Willard thẩm định, nếu tính cả hàng hóa chỉ đi qua Biển Đông, tổng giá trị hàng hóa được vận chuyển hàng năm qua vùng này lên tới 5,3 nghìn tỷ đô la, trong số đó có 1,2 nghìn tỷ của Hoa Kỳ.
Chính vì thế, theo giáo sư Peter Dutton, chuyên gia nghiên cứu chiến lược, phụ trách Viện nghiên cứu hàng hải Trung Quốc, thuộc Học viện Hải Chiến Mỹ, được đài truyền hình CNBC trích dẫn, các căng thẳng tại Biển Đông đặt ra vấn đề về rủi ro an ninh kinh tế đối với toàn cầu. Một cuộc xung đột giữa Trung Quốc với một trong những nước láng giềng nhỏ bé cũng có thể gây rối loạn đối với các tuyến vận tải hàng hải, qua đó, ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới. Tuy không cho rằng xung đột có thể xảy ra, nhưng vị giáo sư này thẩm định : « Một sự gián đoạn giao thông hàng hải trong vòng 3 tuần cũng có thể gây ra tác động tác kể ». Cho dù tàu bè các nước vẫn tiếp tục qua lại Biển Đông khi xảy ra xung đột, chi phí bảo hiểm « sẽ rất cao ».
Lo ngại về an ninh kinh tế còn xuất phát từ một yếu tố khác : Đó là chính sách kiểm soát Biển Đông của Trung Quốc. Giáo sư Dutton nhận xét, trong những năm qua, Bắc Kinh đã tỏ rõ ý định muốn kiểm soát tất cả các vùng biển, tuyến hàng hải mà họ cho rằng thuộc vùng ảnh hưởng của hải quân Trung Quốc. Xu hướng này ngược lại hoàn toàn với chuẩn mực chung toàn cầu về tự do lưu thông ở đại dương. Ông nói : « Mối lo ngại của chúng tôi là Trung Quốc định ra các quyền rộng rãi để kiểm soát các vùng theo luật lệ của họ và giành quyền cấm các tàu bè quân sự nước ngoài qua lại ». Nếu điều này xảy ra, thì các nước khác trong vùng cũng sẽ làm tương tự. Mặt khác, Trung Quốc không có đủ khả năng để điều phối các hoạt động hàng hải trong một vùng biển rộng lớn như vậy.
Một số nhà phân tích không nghĩ rằng các tuyến giao thông hàng hải ở Biển Đông sẽ trở thành khu vực tranh chấp. Ông Gary Li, chuyên gia về hàng hải, thuộc IHS Maritime nhận định, khó có thể xảy ra rối loạn trên các tuyến hàng hải, vì « tất cả mọi người đều cần các tuyến đường này, nhất là Trung Quốc ».
Chính vì thế, trước nguy cơ đe dọa tự do lưu thông hàng hải, mỗi nước đều tính toán trong việc có nên phản ứng hay không và phản ứng ra sao, để bảo vệ quyền lợi của mình. Các tính toán này đã phần nào bị chi phối bởi một thực tế là trong những vụ đối đầu vừa qua với Trung Quốc, Hoa Kỳ đã không tỏ ra là một đồng minh luôn luôn đáng tin cậy.
Những tính toán này được thể hiện rõ trong vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu tại nơi mà Việt Nam khẳng định thuộc vùng đặc quyền kinh tế của mình, hồi đầu tháng Năm vừa qua. Cuối cùng thì Việt Nam và Trung Quốc đều tìm cách làm dịu tình hình : Bắc Kinh tự rút giàn khoan và Việt Nam cử đặc phái viên sang thương thảo.
Là một trong những bên có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông, Malaysia luôn tỏ ra kín tiếng và theo giới chuyên gia, dường như Kuala Lumpur quyết định rằng quan hệ kinh tế của họ với Trung Quốc là quan trọng hơn cả.
Đáng ngạc nhiên là phản ứng của Philippines, kiện Trung Quốc ra trước tòa án trọng tài Liên Hiệp Quốc cho dù Bắc Kinh đe dọa là bất kỳ nước nào kiện họ thì sẽ phải trả giá.
Trước phản ứng yếu ớt của các nước Đông Nam Á, Trung Quốc sẽ từng bước củng cố các đòi hỏi chủ quyền biển đảo và Bắc Kinh không làm việc này một cách nhanh chóng, ngay một lúc. Theo nhận định của ông Zachary Abuza, chuyên gia về an ninh Đông Nam Á, « Trung Quốc làm theo kiểu cắt lát xúc xích, thôn tính từng hòn đảo, từng bãi đá. Đây chính là điều đang xảy ra và không ai ngăn cản được ».
Bộ Thương mại Mỹ cho biết, trong năm 2013, Hoa Kỳ xuất khẩu 79 tỷ đô la hàng hóa sang các nước trong vùng Biển Đông và nhập khẩu 127 tỷ đô la từ những quốc gia này. Đô đốc hải quân Mỹ Robert Willard thẩm định, nếu tính cả hàng hóa chỉ đi qua Biển Đông, tổng giá trị hàng hóa được vận chuyển hàng năm qua vùng này lên tới 5,3 nghìn tỷ đô la, trong số đó có 1,2 nghìn tỷ của Hoa Kỳ.
Chính vì thế, theo giáo sư Peter Dutton, chuyên gia nghiên cứu chiến lược, phụ trách Viện nghiên cứu hàng hải Trung Quốc, thuộc Học viện Hải Chiến Mỹ, được đài truyền hình CNBC trích dẫn, các căng thẳng tại Biển Đông đặt ra vấn đề về rủi ro an ninh kinh tế đối với toàn cầu. Một cuộc xung đột giữa Trung Quốc với một trong những nước láng giềng nhỏ bé cũng có thể gây rối loạn đối với các tuyến vận tải hàng hải, qua đó, ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới. Tuy không cho rằng xung đột có thể xảy ra, nhưng vị giáo sư này thẩm định : « Một sự gián đoạn giao thông hàng hải trong vòng 3 tuần cũng có thể gây ra tác động tác kể ». Cho dù tàu bè các nước vẫn tiếp tục qua lại Biển Đông khi xảy ra xung đột, chi phí bảo hiểm « sẽ rất cao ».
Lo ngại về an ninh kinh tế còn xuất phát từ một yếu tố khác : Đó là chính sách kiểm soát Biển Đông của Trung Quốc. Giáo sư Dutton nhận xét, trong những năm qua, Bắc Kinh đã tỏ rõ ý định muốn kiểm soát tất cả các vùng biển, tuyến hàng hải mà họ cho rằng thuộc vùng ảnh hưởng của hải quân Trung Quốc. Xu hướng này ngược lại hoàn toàn với chuẩn mực chung toàn cầu về tự do lưu thông ở đại dương. Ông nói : « Mối lo ngại của chúng tôi là Trung Quốc định ra các quyền rộng rãi để kiểm soát các vùng theo luật lệ của họ và giành quyền cấm các tàu bè quân sự nước ngoài qua lại ». Nếu điều này xảy ra, thì các nước khác trong vùng cũng sẽ làm tương tự. Mặt khác, Trung Quốc không có đủ khả năng để điều phối các hoạt động hàng hải trong một vùng biển rộng lớn như vậy.
Một số nhà phân tích không nghĩ rằng các tuyến giao thông hàng hải ở Biển Đông sẽ trở thành khu vực tranh chấp. Ông Gary Li, chuyên gia về hàng hải, thuộc IHS Maritime nhận định, khó có thể xảy ra rối loạn trên các tuyến hàng hải, vì « tất cả mọi người đều cần các tuyến đường này, nhất là Trung Quốc ».
Chính vì thế, trước nguy cơ đe dọa tự do lưu thông hàng hải, mỗi nước đều tính toán trong việc có nên phản ứng hay không và phản ứng ra sao, để bảo vệ quyền lợi của mình. Các tính toán này đã phần nào bị chi phối bởi một thực tế là trong những vụ đối đầu vừa qua với Trung Quốc, Hoa Kỳ đã không tỏ ra là một đồng minh luôn luôn đáng tin cậy.
Những tính toán này được thể hiện rõ trong vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu tại nơi mà Việt Nam khẳng định thuộc vùng đặc quyền kinh tế của mình, hồi đầu tháng Năm vừa qua. Cuối cùng thì Việt Nam và Trung Quốc đều tìm cách làm dịu tình hình : Bắc Kinh tự rút giàn khoan và Việt Nam cử đặc phái viên sang thương thảo.
Là một trong những bên có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông, Malaysia luôn tỏ ra kín tiếng và theo giới chuyên gia, dường như Kuala Lumpur quyết định rằng quan hệ kinh tế của họ với Trung Quốc là quan trọng hơn cả.
Đáng ngạc nhiên là phản ứng của Philippines, kiện Trung Quốc ra trước tòa án trọng tài Liên Hiệp Quốc cho dù Bắc Kinh đe dọa là bất kỳ nước nào kiện họ thì sẽ phải trả giá.
Trước phản ứng yếu ớt của các nước Đông Nam Á, Trung Quốc sẽ từng bước củng cố các đòi hỏi chủ quyền biển đảo và Bắc Kinh không làm việc này một cách nhanh chóng, ngay một lúc. Theo nhận định của ông Zachary Abuza, chuyên gia về an ninh Đông Nam Á, « Trung Quốc làm theo kiểu cắt lát xúc xích, thôn tính từng hòn đảo, từng bãi đá. Đây chính là điều đang xảy ra và không ai ngăn cản được ».
No comments:
Post a Comment