Mai Thái Lĩnh - Sự thật về Thác Bản Giốc (Phần I)
Mai Thái Lĩnh
Vào những tháng cuối năm 2011, “Thác Bản Giốc” bỗng nhiên lại trở thành đề tài hàng đầu của báo chí trong nước. Điều khiến cho các nhà báo cảm thấy bức xúc là tình trạng mất cân đối giữa hai bên: trong khi ngành du lịch Trung Quốc thu hút được gần một triệu du khách hàng năm nhờ vào thắng cảnh này thì về phía Việt Nam, số lượng du khách đến thăm Thác Bản Giốc chỉ vào khoảng 30 ngàn. Nhiều lý do đã được nêu ra để lý giải: do cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, do “Hiệp định hợp tác khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc” chưa được ký kết, v.v… Thậm chí, trên báo Thanh Niên, các phóng viên còn biểu lộ lòng yêu nước bằng cách phê phán các báo phương Tây (như trang mạng News.com.au của Úc hay tạp chí Life của Mỹ) đã “xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ Việt Nam” khi chú thích ảnh chụp Thác Bản Giốc là “Detian Falls, China” (Thác Đức Thiên, Trung Quốc).[1]
Vấn đề đặt ra là: tại sao trong khi chưa ký kết “hiệp định hợp tác”, phía Trung Quốc vẫn có thể tiến hành khai thác du lịch một cách có hiệu quả không cần đến sự hỗ trợ của phía Việt Nam? Ngược lại, tại sao phải cần đến một “hiệp định hợp tác” thì Thác Bản Giốc của nước ta mới có thể “cất cánh”? Hơn thế nữa, tại sao Thác Bản Giốc lại trở thành Thác Đức Thiên, tại sao một thác nước trước đây được coi là của riêng Việt Nam nay lại trở thành “thác nước chung” của hai quốc gia? Trên báo chí hợp pháp (thường được gọi là báo chí “lề phải”), chưa thấy ai đặt ra những câu hỏi tương tự. Nhưng đó lại là những câu hỏi quan trọng cần được giải đáp nghiêm túc trước khi trả lời câu hỏi “ai mới thật sự là kẻ xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ Việt Nam?”.
1. Thác Bản Giốc có gì lạ?
Thác Bản Giốc là một thắng cảnh nổi tiếng của nước ta ở vùng biên giới Việt – Trung. Vào thời nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc, thác này nằm trong địa phận của huyện Thượng Lang, ngày nay thuộc huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Trên các bản đồ của vùng này, vị trí của thác nước thường không được ghi rõ; hai chữ “Bản Giốc” được nhìn thấy trên bản đồ thật ra nhằm để chỉ một bản (làng) của người Tày ở gần thác nước chứ không nhằm chỉ vị trí của thác nước (ảnh 1).
Điều gì làm cho Thác Bản Giốc trở thành đặc sắc so với tất cả các thác nước trên toàn cõi Việt Nam? Trong cuốn Thiên nhiên Việt Nam (ấn bản năm 1977), nhà địa lý học Lê Bá Thảo đã miêu tả Thác Bản Giốc như sau:
“Sông Quây Sơn ở phía bắc Thượng Lang sau khi chảy qua một vùng đá vôi rộng lớn đến Bản Giốc thì đổ vào khu vực đá phiến tạo thành ba bậc thác nước chênh nhau đến 34 m. Vào mùa lũ (từ tháng 5 đến tháng 9), nước từ các hốc ngầm đá vôi ở thượng lưu tuôn đến đổ xuống các bậc tung bọt nước trắng xóa, làm đoạn thung lũng ở phía dưới thác mở ra rất rộng. Đứng trên bãi cát ven sườn thung lũng, người ta có cảm tưởng bị vây quanh bởi những bức tường nước đồ sộ nhưng chúng không hề gây cho chúng ta cảm giác sợ hãi. Trái lại, phong cảnh lại cực kỳ đẹp đẽ và bình dị.”[2] “Ba bậc thác nước chênh nhau đến 34 m” chính là vẻ đẹp cốt lõi của Thác Bản Giốc, làm cho nó khác hẳn tất cả các thác nước khác ở nước ta.
Ảnh 2: Toàn cảnh Thác Bản Giốc vào mùa nước cạn. Bờ nam (hữu ngạn) của sông Quây Sơn là lãnh thổ của Việt Nam. Bờ bắc (tả ngạn) ngày nay thuộc lãnh thổ của Trung Quốc.
Nếu nhìn một cách toàn diện, Thác Bản Giốc bao gồm hai phần. Phần thác chính ở phía bắc là “ba bậc thác nước chênh nhau đến 34m” như trên vừa nói - tạm gọi là “thác ba tầng”; phần thác phụ ở phía nam là “ba dòng thác” đổ từ trên cao xuống tương tự những thác thường thấy trong khắp cả nước, không có gì đặc sắc. Vào mùa nước lớn, khi nước chảy tràn trề, người ta có thể nhìn thấy rõ ba dòng thác làm nên thác phụ; nhưng đến mùa khô, nơi đây chỉ còn các dòng nước teo tóp đổ vào một vũng nước hẹp. Vì thế có thể nói phần thác chính mới là “linh hồn” của Thác Bản Giốc. Những hình ảnh ngày xưa thường thấy trên các sách ảnh hay lịch treo tường thường là ảnh của phần thác chính. Do đó trước đây mỗi khi nghe nói đến Thác Bản Giốc, ít ai biết đến phần thác phụ. Điều đáng nói hơn cả là: vẻ đẹp của Thác Bản Giốc – dù là thác chính nói riêng hay toàn bộ hai phần của thác, chỉ thể hiện một cách trọn vẹn khi được nhìn ngắm từ chính diện hay từ phía “bờ bên kia”, tức là bờ phía bắc (tả ngạn sông Quây Sơn). Từ bờ Nam (hữu ngạn), chúng ta không thể nhìn thấy toàn cảnh của hai phần thác. Nếu chịu khó đi ra tận doi đất ven sông ở hạ lưu, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy“thác ba tầng”, nhưng chỉ có thể nhìn nghiêng chứ không thể nhìn được chính diện (ảnh 3).
Như vậy, không cần phải là chuyên gia về du lịch, chúng ta cũng có thể thấy ngay được sự thật: ai sở hữu được bờ bắc (tả ngạn sông Quây Sơn) sẽ nắm được thế thượng phong trong khai thác du lịch vì từ phía này, người ta có thể nhìn thấy toàn cảnh của thác (kể cả hai phần chính và phụ), có thể đi ngược dòng sông bằng thuyền bè đến tận chân thác, thậm chí có thể trèo lên tận đỉnh thác để ngắm cảnh, chụp ảnh, ... Trong khi đó, người nắm giữ bờ phía nam không thể giúp du khách nhìn ngắm tất cả các vẻ đẹp của thác – trừ khi phải nhờ cậy phía bên kia.
Kể từ khi sở hữu được bờ bắc của sông Quây Sơn, nhà cầm quyền Trung Quốc đã đưa Thác Bản Giốc vào danh sách các điểm du lịch với cái tên mới là Đức Thiên (德天, Detian). Theo lộ trình thông thường, các du khách đi từ phía Trung Quốc sẽ được chở bằng xe ca đến một địa điểm ở phía đông-nam của thác. Sau đó du khách sẽ đi bộ một quãng đường và trên đường đi, họ có thể chụp được các tấm ảnh toàn cảnh đẹp như tranh vẽ – kể cả phần thác phụ nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Du khách cũng có thể dùng bè để đi đến chân thác.
Một lợi thế khác của bờ bắc là du khách có thể trèo lên thượng nguồn, mua sắm ở chợ trời biên giới để rồi sau đó trở lại phía hạ lưu, không cần phải sang bờ phía nam.
Tóm lại, phía Trung Quốc có thể tự mình khai thác du lịch ở thắng cảnh này. Ngược lại, nếu muốn khai thác du lịch có hiệu quả, lôi kéo được khách quốc tế, phía Việt Nam buộc phải nhờ vả ông bạn“16 chữ vàng”, mà đã nhờ vả thì đương nhiên phải chấp nhận các điều kiện do phía bên kia đặt ra.
Việc Trung Quốc nắm được ưu thế trong kinh doanh du lịch ở khu vực Thác Bản Giốc không cần đến Việt Nam đã mặc nhiên bác bỏ luận điệu của các nhà ngoại giao khi cho rằng “trong việc phân chia, ta vẫn được phần nhiều hơn vì được toàn bộ phần thác phụ cộng với một nửa phần thác chính”. Thật ra, cách lập luận này của ông Vũ Dũng (Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) vào năm 2009 chỉ là một sản phẩm của thuật ngụy biện nhằm lừa dối dư luận. Nếu xem xét Thác Bản Giốc như một thắng cảnh đẹp, một tài nguyên thiên nhiên thì vấn đề chính không phải là giữ được phần nhiều hơn (toàn bộ thác phụ cộng với một nửa của thác chính), bởi vì phần bị mất đi (nửa thác chính) tuy ít hơn, nhưng cộng với toàn bộ bờ bên trái sông Quây Sơn lại chính là phần đẹp nhất, phần quan trọng nhất của thắng cảnh. Bài toán chủ quyền không chỉ đơn thuần là một bài toán cộng trừ như ông Vũ Dũng (và những người lãnh đạo ở phía sau) đã “tính toán”. Đó là chưa kể đến giá trị của bờ bắc (tả ngạn) sông Quây Sơn xét về mặt quốc phòng, giá trị mà không có bài toán số học nào có thể lấp liếm được, như chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau.
2. Tại sao phải chia một phần Thác Bản Giốc cho Trung Quốc?
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn dành cho Thu Uyên (phóng viên của trang mạng VASC Orient)[3] vào đầu năm 2002, ông Lê Công Phụng (lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) đã phát biểu như sau:
“Ông LCP: Về thác Bản Giốc, thì đây là điều rất phức tạp. Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là của Trung Quốc. Còn đối với chúng ta, thác này đã đi vào sử sách, nhất là sách giáo khoa của học sinh, thành di tích, điểm du lịch được nhiều người ưa chuộng. Đây là điều mà chúng tôi rất khó hiểu, bởi lẽ trong công ước giữa nhà Thanh và Pháp, thác Bản Giốc chỉ thuộc về chúng ta có 1/3 thôi; và theo thực trạng cột mốc được cắm từ thời nhà Thanh, thì chúng ta cũng chỉ được 1/3 thác.
VASC Orient: Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh?
Ông LCP: Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định quốc tế, khi phân giới cắm mốc thì thác được coi như một dòng sông, một dòng suối. Đã là sông suối thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là chỗ tàu thuyền đi lại được. Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không đi lại được, thì đường biên giới phải đi theo rãnh sâu nhất.
VASC Orient: Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch, trong đó có những người có trách nhiệm, đi thăm thác Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó hay sao?
Ông LCP: Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo sát thì mới thấy cột mốc nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm thước. Vì vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản Giốc.
Trước tình hình như vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong đàm phán phải hợp lý, thỏa đáng phù hợp với mặt pháp lý. Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh - Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả. Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn được. Lẽ ra theo thực tiễn thì chúng ta chỉ được 1/3. Nhưng sau đàm phán, chúng ta và bạn đã thỏa thuận thác Bản Giốc được chia đôi, mỗi bên được 50%. Hiện nay cả 2 bên đang tiến hành khai thác du lịch phía bên mình.
Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc.”[4]
Tóm lại, theo ông Lê Công Phụng, do phát hiện một cột mốc “nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối”cách Thác Bản Giốc “khoảng mấy trăm thước”, cho nên đoàn đàm phán của Việt Nam mới phải tính toán lại chủ quyền đối với Thác Bản Giốc.
Tấm bản đồ 186 C về khu vực tranh chấp cồn Pò Thoong được công bố trên báo Diễn Đàn của Việt kiều tại Pháp vào năm 2002 (xem ảnh 7). Được giới thiệu là “tài liệu mật” rò rỉ từ Thường trực Bộ Chính trị ĐCSVN, tài liệu này nhằm giải thích lý do tranh chấp giữa hai bên. Vì “phát hiện” ra cột mốc 53 cho nên dựa theo “luật pháp quốc tế”, đường biên giới phải chạy ở phía nam cồn Pò Thoong dựa vào trung tuyến của dòng chảy chính và như thế, toàn bộ cồn Pò Thoong phải thuộc về Trung Quốc; phía Việt Nam chỉ được 1 phần 3 của thác chính.
Theo giải thích chính thức đăng trên Tạp chí Cộng sản thì sau nhiều lần đàm phán gay go, hai bên đã đạt thỏa thuận: “Đường biên giới đi từ mốc 53 (cũ) lên cồn Pò Thoong rồi đến điểm giữa của mặt thác chính. Như vậy, toàn bộ thác phụ và 1/2 thác chính quy thuộc Việt Nam. Hai bên cũng thoả thuận sẽ bàn bạc việc hợp tác phát triển tiềm năng du lịch tại Thác Bản Giốc.”[5]
Nhìn vào tấm bản đồ do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố (ảnh 8), chúng ta thấy đường biên giới được vạch từ cột mốc số 835 (là cột mốc mới thay cho cột mốc 53 trước đây) đi qua cồn Pò Thoong (trong ảnh ghi là cồn Pò Đon) đến điểm giữa của thác chính (thác ba tầng) và sau đó đường biên giới chạy theo trung tuyến của dòng sông Quây Sơn. Để giải quyết tranh chấp theo cách phân chia phức tạp đó, từ cột mốc 835 còn sinh ra thêm nhiều cột mốc phụ: cột mốc phụ 835/1 nằm sát bờ sông, cột mốc phụ 835/2 nằm trên cồn Pò Thoong và hai cột mốc phụ ở hạ lưu: 836(1) nằm ở tả ngạn trên lãnh thổ Trung Quốc và 836(2) nằm trên doi đất thuộc lãnh thổ Việt Nam (giữa thác chính và thác phụ).
Nhưng tại sao cồn Pò Thoong lại bị chia cắt theo công thức “1 phần 4 thuộc về Việt Nam, 3 phần 4 thuộc về Trung Quốc”? Ông Nguyễn Hồng Thao, Phó giáo sư Tiến sĩ, thành viên đoàn đàm phán, giải thích như sau:
“Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới đi theo trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong, hai bên đã điều chỉnh đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960, quy thuộc 1/4 cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ thác cao cho Việt Nam.”[6]
Điều đó có nghĩa là: đáng lẽ “theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế” thì cồn Pò Thoong (rộng khoảng 2,6 hec-ta) hoàn toàn thuộc về Trung Quốc, nhưng do “ta đã đấu tranh quyết liệt và bạn đã nhân nhượng”, cho nên hai bên mới điều chỉnh đường biên giới để Việt Nam còn sở hữu được 1 phần 4 cồn. Nhưng điều kỳ lạ là trên cồn Pò Thong còn có “dấu tích Trạm thủy văn xây dựng vào những năm 1960”. Trạm thủy văn này do ai xây dựng; kẻ xây dựng đó là kẻ lấn chiếm hay là kẻ sở hữu cồn Pò Thong? Không thấy ai giải thích rõ điều này.
Có một chi tiết cho thấy cách tư duy và lập luận rất kỳ lạ của các nhà ngoại giao Việt Nam: phần thác chính (ba tầng) được gọi là “thác thấp”, phần thác phụ (ba dòng) lại được gọi là “thác cao”. Độc giả có thể nhìn vào ảnh 9 để thấy giữa “thác cao” ở phía trái và “thác thấp” ở phía bên phải, bên nào cao hơn bên nào?
3. Ai là chủ nhân thật sự của Thác Bản Giốc?
Như trên đã dẫn, ngay cả ông Lê Công Phụng cũng cảm thấy khó hiểu: “Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là của Trung Quốc.” Điều làm chúng ta ngạc nhiên là nếu thật sự cảm thấy “khó hiểu”, tại sao các nhà ngoại giao lại không tham khảo ý kiến của giới trí thức?
Nếu xét về tài liệu thì chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để chứng minh toàn bộ Thác Bản Giốc là của Việt Nam. Chỉ xin dẫn chứng một số tài liệu sau đây:
1) Trước hết là tài liệu của nhà địa lý học Lê Bá Thảo. Trong cuốn sách Thiên nhiên Việt Nam đã dẫn (ấn bản 1977), tại trang 78, có đăng tấm ảnh chụp cảnh Thác Bản Giốc nhưng chỉ chụp thác chính, tức thác ba tầng (xem ảnh 10).
Điều đáng chú ý là dòng ghi chú bên dưới: “Trên sông Quây Sơn ở ngay biên giới”. Nhìn vào tấm ảnh, chúng ta thấy ảnh được chụp từ một doi đất nằm ở hạ lưu của thác chính phía bên bờ bắc (tả ngạn sông Quây Sơn). Đây chính là bằng chứng cho thấy ở tả ngạn của dòng sông phía dưới chân thác chính vẫn có một phần đất thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ngày nay phần đất này đã chính thức bị cắt cho phía Trung Quốc cho nên người Việt không còn có thể đứng trên lãnh thổ của mình để chụp những tấm ảnh tương tự.
Cũng trong cuốn sách nói trên, có một bản đồ “Miền Đông - Bắc” đăng ở trang 41 (ảnh 11). Nhìn vào tấm bản đồ này, chúng ta thấy địa điểm Thác Bản Giốc nằm trong nội địa nước ta. Mặc dù đây chỉ là một tấm bản đồ vẽ tay, nhưng một khi tác giả (vốn là một nhà địa lý học nổi tiếng của miền Bắc) đã dám ghi vị trí của thác nước như thế, chắc hẳn ông phải dựa vào tài liệu địa lý chính xác cùng với sự kiểm tra thực địa. Vì vậy, có thể coi đây là một tài liệu đáng tin cậy.
2) Tác giả Trương Nhân Tuấn ở hải ngoại tìm được một cuốn sách xuất bản năm 1895 có tên là Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si (Ở Bắc Kỳ và trên vùng biên giới Quảng Tây) của Thiếu tá Famin - Phó Chủ nhiệm Ủy ban cắm mốc biên giới Trung-Việt năm 1894.[7] Tại trang 12 và 13 có đoạn viết về Thác Bản Giốc:
“Trong phần phía Bắc (của khu quân sự thứ hai, Deuxième Territoire)[8], dòng sông xinh đẹp mang tên Qui-Thuận chảy ngang qua đó theo hướng Phủ Trùng Khánh. Đây là một phụ lưu trực tiếp của sông Tây Giang (Si-Kiang). Dòng sông này rộng 60 m, đi vào đất Bắc Kỳ bằng cửa Ai Lung và ra khỏi nơi đây (để vào đất Trung Hoa) tại một điểm gần đồn Trung Hoa có tên Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung lũng rộng lớn cực kỳ phì nhiêu.
Hai ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một ghềnh đá và làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m. Cột nước khổng lồ rơi ầm ầm xuống một bồn nước thứ nhất, từ đó nó nảy lên thành những chùm tia nước sủi bọt trên những bậc thang đá vôi nhẵn bóng. Vào mùa mưa, thác nước này trưng ra một dáng vẻ tuyệt vời, tiếng động của thác nước có thể nghe được từ xa và dội vào những vách núi nghe như tiếng sấm, trong khi những đám mây hơi nước hình thành ở vùng lân cận và tan ra thành một đám mưa nhỏ thật sự.”
Trong đoạn văn này, cần chú ý đến câu: “Hai ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một ghềnh đá và làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m”. Câu này cho thấy “thác nước tuyệt đẹp” (tức Thác Bản Giốc) cách điểm dòng sông Qui Thuận (tức sông Quây Sơn) rời lãnh thổ Việt Nam khoảng 2 km. Nói cách khác, ở bờ trái (tả ngạn) của sông, có một dải đất dài khoảng 2 km thuộc lãnh thổ Việt Nam. Như thế trong khoảng 2km tính từ Thác Bản Giốc, đường biên giới không thể là trung tuyến của dòng sông như “cách thức phân giới” mà các nhà ngoại giao của hai nước đã“sáng tạo” ra dựa theo Hiệp ước 1999.
Một điều đáng chú ý khác trong đoạn văn này: tên sông được ghi là Qui-Thuan (Qui-Thuận). Trong bài viết “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây”, dựa trên tài liệu của nhà Thanh, ông Trương Nhân Tuấn cho biết sông Long (tức Tả Giang) có một phụ lưu tên là sông Qui Thuận và ở sát biên giới Việt Nam có một châu tên là Châu Qui Thuận 歸順州.[9] Điều này phù hợp với Đại Nam Nhất Thống Chí, vì sách này cho biết giáp với Phủ Trùng Khánh về phía bắc là “châu Qui Thuận thuộc phủ Trấn Yên nước Thanh”.[10] Chúng ta có thể phỏng đoán: tên của dòng sông bắt nguồn từ tên của địa phương (châu Qui Thuận) – nơi phát nguyên của sông. Trong các bản đồ cũ, tên phiên âm la-tinh của sông Quây Sơn là Kouei Chouan; nhưng trong các tài liệu của Trung Quốc ngày nay, tên của dòng sông Quây Sơn là Guichun, 歸春河, đọc theo âm Hán-Việt là "Qui Xuân hà".
3) Trong số các bưu ảnh do nhà nhiếp ảnh Pierre Dieulefils chụp, chúng ta tìm thấy tấm ảnh mang số 832. Tấm ảnh này được ghi chú như sau: “TONKIN - Région de Cao-Bang – Cascade de Ban-Giot – Passage du gué par une compaghie de tirailleurs tonkinois” (BẮC KỲ - Vùng Cao Bằng - Thác Bản Giốc – Một đại đội lính bản xứ Bắc Kỳ lội qua sông).
Nhìn vào tấm bưu ảnh (ảnh 13), chúng ta thấy những người lính Việt dưới sự chỉ huy của một người Pháp đang lội qua sông từ phía bên kia (tả ngạn) vào mùa nước cạn. Thác trong ảnh là thác chính ba tầng chứ không phải thác phụ ba dòng. Điều này chứng minh bờ phía bắc (tả ngạn sông Quây Sơn) ngay dưới chân thác là đất của Bắc Kỳ (Việt Nam) chứ không phải đất của Trung Quốc, vì thế chỉ huy người Pháp và binh lính người bản xứ mới có thể đi tuần tra bên kia bờ sông và từ bên đó trở về.
4) Trong bài viết “Tấc đất tấc vàng” được công bố vào năm 2005[11], ông Hàn Vĩnh Diệp – một đảng viên ĐCS, cán bộ hưu trí, người đã từng nhiều năm công tác ở vùng Cao Bằng trước năm 1975, kể lại:
“Năm 1965 chúng tôi được tham gia đoàn khảo sát thực tế để biên soạn sách giáo khoa - Tập đọc cấp I của Khu giáo dục Khu tự trị Việt Bắc. Hai khu giáo dục ngoài nhiệm vụ biên soạn sách giáo khoa vở lòng - cấp I tiếng Thái, Mèo, Tày - Nùng; còn phải soạn cả sách giáo khoa Tập đọc tiếng Việt. Một trong những điểm khảo sát đợt ấy là Kênh Copáo và thác Bản Giốc thuộc huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng. Kênh Copáo lấy nguồn nước từ một đầm trũng bên kia biên giới Trung Quốc (huyện Tỉnh Tây, Quảng Tây) cho các cánh đồng phía Bắc huyện Trùng Khánh. (…) Đến thác Bản Giốc, chúng tôi sang cả bên bờ Bắc sông Quây Sơn, vào sâu hơn một cây số vẫn là làng bản dân ta.”
5) Trong bài báo đăng trên Vietnam Net đã được trích dẫn, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao – thành viên đoàn đàm phán, đã tiết lộ: trên cồn Pò Thoong vẫn còn “dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960”.
Nếu xem lại “bị vong lục” (hay còn gọi là giác thư, memorandum) năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, chúng ta thấy có đoạn: “Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người, kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc.”[12]
Như vậy, trạm thủy văn này rõ ràng là do phía Việt Nam xây dựng, bởi vì trước năm 1976, cồn Pò Thoong vẫn còn thuộc về lãnh thổ Việt Nam và “chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó”. Đây chính là một bằng chứng hùng hồn về chủ quyền của Việt Nam đối với cồn Pò Thoong.
Việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và phá hủy trạm thủy văn ở nơi đó không thể che lấp được sự thật: trước đó Việt Nam là chủ sở hữu của cồn này, và đương nhiên là chủ sở hữu của toàn bộ Thác Bản Giốc. Toàn bộ hồ sơ về việc thành lập và quá trình hoạt động của trạm thủy văn chính là một bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam. Điều này chứng tỏ cột mốc 53 nằm sai vị trí, và việc nó bị dời đến địa điểm hiện nay là do phía Trung Quốc thực hiện sau khi đã chiếm cồn Pò Thoong.
Ngược lại, nếu khẳng định như ông Lê Công Phụng rằng cột mốc 53 đã tồn tại nơi đó (trước mặt cồn Pò Thoong) từ khi ký hiệp định Pháp - Thanh thì kẻ xâm chiếm cồn Pò Thoong, vi phạm hiệp định Pháp - Thanh chính là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi cho xây dựng trạm thủy văn vào thập niên 1960. Khi công bố điều này, không lẽ ông Lê Công Phụng muốn chuẩn bị cho tình huống Đảng cộng sản Việt Nam sẽ công khai xin lỗi Đảng cộng sản Trung Quốc về việc xâm chiếm cồn Pò Thoong vào thập niên 1960?
Tóm lại, từ chỗ là một thác nước hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam, sau hiệp ước 1999 một phần thác chính lại trở thành sở hữu của Trung Quốc. Từ chỗ toàn bộ bờ phía bắc tính từ phía trên thác cho đến tận chân thác đều là của Việt Nam, ngày nay toàn bộ bờ bắc – tính từ cột mốc 835 mới cho đến hạ lưu, lại nằm trong lãnh thổ Trung Quốc. Sự thay đổi kỳ quặc này nhất định là có liên quan đến cái cột mốc số 53 gây bất ngờ nói trên.
Để hiểu rõ sự thật, chúng ta cần tìm hiểu cột mốc số 53, đúng hơn là vị trí của cột mốc 53. Phải chăng nó vẫn nằm ở vị trí đó từ khi có hiệp định Pháp - Thanh như các vị chức sắc Bộ Ngoại giao nước ta vẫn khăng khăng khẳng định? Hay nó là một thứ “cột mốc có chân” có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác theo thời gian?
Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012
Mai Thái Lĩnh
(Còn tiếp)
________________________________________
________________________________________
Chú giải:
[1] Bản Giốc chờ ngày cất cánh, Thanh Niên 23/10/2011:
[2] Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà nội 1977, tr. 43-44.
[3] VASC Orient chính là tiền thân của trang mạng VietNamNet hiện nay
[4] “Thứ trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng trả lời phỏng vấn của VASC Orient chiều 28/1/2002”. Mặc dù đã bị bóc gỡ, bài phỏng vấn này vẫn được lưu truyền trên mạng Internet trong suốt một thập niên qua.
[5] Nguyễn Trường Giang, “Hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc”, Tạp chí cộng sản, 27/2/2009
[6] Nguyễn Hồng Thao, “Việt-Trung và đường biên giới pháp lý, công bằng, hữu nghị”, Vietnam Net 02/01/2009
Ông Phó giáo sư Tiến sĩ này về sau thăng chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao và gần đây, được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Malaysia.
[7] Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, par le Commandant Famin, Vice-Président de la Commission d’Abornement des Frontières Sino-Annamites en 1894, Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie Coloniale, 1895. Ảnh chụp lại hai trang 12 và 13 đã được công bố trong “Thư ngỏ của nhà khoa học Thái Văn Cầu gửi PGS TS Nguyễn Hồng Thao, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam”: Bauxite Vietnam, 07/01/2011
[8] Người Pháp thành lập ở vùng thượng du Bắc Việt 4 khu quân sự (territoires militaires): (1) Móng Cái, (2) Cao Bằng, (3) Hà Giang và (4) Lai Châu. Về sau, còn thành lập thêm khu thứ 5 ở Phong Saly (Lào). Đào Duy Anh gọi là đạo quân sự thứ hai (Xem Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Viện Sử học VN - Nxb Thuận Hóa, 1996,tr. 219).
[9] Trương Nhân Tuấn, “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây”, phần I, 29-08-2009
[10] Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 4, Nxb Thuận Hóa 1997, tr. 403.
[11] Hàn Vĩnh Diệp, “Tấc đất tấc vàng”. Bài này được đăng trên Mạng Ý kiến (ykien.net) vào năm 2005, nhưng đến nay trang mạng này không còn tồn tại vì bị tin tặc đánh phá. Có thể tham khảo bản đăng lại tại địa chỉ: http://www.freewebs.com/tinvn/TacDatTacVang.htm
[12] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1979, tr. 11-12. Cuốn sách này chính là toàn văn của bản «bị vong lục» (giác thư, memorandum) của Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố ngày 15-3-1979.
Hồ Gươm gửi hôm Thứ Bảy, 11/02/2012
|
Bạn đánh giá bài viết này thế nào?
|
- 6770 lượt đọc
- bản in
- 0 cảm ơn
-----
2009-01-01 21:44:51
CHIỀU TÂY ĐÔ
ẢI NAM QUAN thời THANH ký với PHÁP, cách HỮU NGHỊ QUAN ngày nay khoảng hơn 4 km!
(Khoảng năm 1960, HỒ cùng với MAO đã xóa ẢI NAM QUAN trước kia! Có lẽ để lấn vào biên giới VN khoảng hơn 4 km, thành ĐẤT của TÀU; để Mỹ không xâm phạm và biến thành vùng AN NINH HẬU CẦN cho Bắc Việt. Sau đó Tàu chiếm luôn!)
- ẢI NAM QUAN trước kia, bây giờ là đất của TÀU (nằm tại địa phận BẰNG TƯỜNG của Tàu ngày nay)
...
2009-01-01 22:03:51
CHIỀU TÂY ĐÔ
(Hãy đọc trong TÀI LIỆU (LINK ở trên của TRƯƠNG NHÂN TUẤN),phần THƠ TỐ CÁO số 3 )
(Hội Chuyên Gia Việt Nam)
(Hội Chuyên Gia Việt Nam)
nước ta và Trung Hoa nằm ngay nơi mặt ải. Nguyên văn bài thơ như sau:
Tam bách niên lai trực đáo câm (kim).
Lưỡng quốc bình phân cô luỹ diện,
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm.
Ðiạ thiên mỗi vị truyền văn ngộ,
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm.
Ðế khuyết hồi đầu bích vân biểu,
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm."
Năm đã ba trăm kể đến giờ
Muôn núi ải quan nằm chính giữa
Một thành Hoa-Việt vạch đôi bờ
Trời đất mới biết ơn sao nặng
Ðất hẹp xui nên chuyện hóa ngờ
Mây biếc quay nhìn nơi cửa khuyết
Nhạc Thiều văng vẳng tiếng xa đưa.
Khóc tiễn cha đi mấy dặm đường
Hôm nay biên giới mùa xuân dậy
Núi trắng hoa mơ cờ đỏ đường
Ta đi tới không thể gì chia cắt
Mục Nam Quan đến bãi Cà Mau
Trời ta chỉ một trên đầu
Bắc Nam liền một biển (...)
(Ta đi tới, 8/1954)
Dù ai chia núi ngăn sông
Cũng không thể cắt được lòng Việt Nam
Chúng ta đã quyết thì làm
Ðã đi phải đến hoàn toàn thành công.
(Tố Hữu “Quang vinh Tổ quốc chúng ta”, 8/1955)
Biên địa ngã cố hương.
Kim thuộc Trung quốc thổ,
Khấp, khốc, ký đoạn trường.
Lê Hoàn bại Quang Nghĩa,
Thường Kiệt truy Bắc phương,
Hưng Đạo đại sát Đát,
Lê Lợi trảm Vương Thông.
Nam xâm, Càn Long nhục,
Gươm hồng Bắc bình vương.
Ngũ thiên niên dĩ tải,
Hoa, Việt lập dịch trường.
Mao, Hồ tình hữu nghị,
Nam, Bắc thần xỉ thương,
Huyết lệ vạn dân cốt,
Hồng kỳ thích ô hoang.
(Đại Việt vong quốc nhân Trần Đại Sỹ / Khốc đề lục nhật, cửu nguyệt, niên đại 2001)
Vốn là biên địa cố hương của mình.
Hiện nay là đất Trung nguyên,
Khóc chảy máu mắt, đoạn trường ai hay
Vua Lê thắng Tống chỗ này,
Thường Kiệt rượt Tiết cả ngày lẫn đêm,
Thánh Trần sát Đát liên miên,
Lê Lợi giết bọn Thành sơn bên đồi,
Càn Long chinh tiễu than ôi,
Quang Trung truy sát muôn đời khó quên.
Năm nghìn năm cũ qua rồi,
Chợ biên giới lập, đời đời Việt Hoa
Ông Hồ kết bạn ông Mao,
Sao răng lại cắn, máu trào môi sưng.
Vạn dân xương trắng đầy đồng,
Để lại trên lá cờ Hồng vết nhơ.
(Người nước Đại Việt vong quốc tên Trần Đại Sỹ, khóc đề thơ ngày 6 tháng 9 năm 2001)
-------------------------
(1) Sau thất bai này Đảng Cộng sản đã phải điều trung tướng Nguyễn Hữu An lên chỉ huy chiến trường. Cũng nên nói thêm là tướng Nguyễn Hữu An được coi là vị tướng rất có tài, nhưng đã không lên cao được vì xuất thân từ một gia đình Việt Nam Quốc dân Đảng.
(2) Một nghệ sĩ tên tuổi trong nước kể rằng ngay trong lúc cuộc chiến biên giới năm 1979 đang diễn ra dữ dội thì địa phương quân của Trung Quốc mỗi buổi tối vẫn sang phía Việt Nam để xem các cuộc trình diễn văn nghệ dành cho quân đội Việt Nam đang đánh nhau với quân Trung Quốc.
- Việc đàm phán với TQ về BGQG giữa hai nước Việt – Trung vô cùng khó khăn…
- UBBGQG đã có ’’công lớn’’ trong việc đàm phán này (chứ không có tội, như tiêu đề bài phỏng vấn của phóng viên Phương Loan…)
- Giải thích về việc 2 khu vực quan trọng – nhậy cảm của tổ quốc (bị mất) sau khi kí kết HĐBG với TQ: Thác Bản Giốc và Mục Nam Quan
- Cần phải làm gì để có thể bảo vệ biên giới trên đất liền, trên biển…
Bởi vì, trước khi tiến hành cắm mốc trên thực địa, đã được xác định trên bản đồ. Vậy, câu hỏi được đặt ra là: Vì sao UBBGQG VN – hay nói rõ ra – Đảng và chính phủ VN – cứ phải giấu giấu, diếm diếm nhân dân, nếu cái hiệp định hai bên kí kết thực sự trong sáng, không mờ ám?
Theo ông Thao: “toàn bộ khu vực tranh chấp Việt Nam – Trung Quốc có trên 200 km2, Hiệp ước hoạch định biên giới 1999 đã quy thuộc về Trung Quốc 117,2 km2, quy thuộc về Việt Nam là 114,9 km2…’’ .
…
Con yêu qúy, chớ xuôi lòng mềm yếu
Gác tình riêng vỗ cánh trở về Nam
Con về đi tận trung là tận hiếu
Đem gươm mài dưới bóng nguyệt, khăn tang…
…
Cha nhắc tới tương lai đầy tươi sáng
Khiến lòng con bừng tỉnh cơ mê
Qùy lạy cha ! Cha lên đường ảm đạm
Rồi Nam Quan theo gío con bay về…
Để khích lệ anh em chuyên viên chúng tôi, trưởng đoàn ta úy lạo anh em một chai Nếp Mới. Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường góp chai Mao Đài. Nhân đó trưởng đoàn ta vịnh bốn câu thơ:
Đêm nay Nếp Mới với Mao Đài
Việt – Trung hữu nghị tình thắm mãi
Giữ trọn niềm tin hướng tương lai”.
- Than ôi!
- Có còn thiên lí nữa không?
- Có còn đạo lí của kẻ sĩ trong con người mang học hàm, học vị PGS, TS – Nguyễn Hồng Thao – nữa không?
Mùi xú khí từ bản Hiệp định – “còn thum thủm’’, chưa kịp tan biến trong không gian thì… “MAO ĐÀI’’ (MĐ) tiến hành ngay chiến dịch cướp biển, bắt giam, cầm tù, tống tiền, bắn giết con dâm của “NẾP MỚI’’ (NM) trong khi các “Hào Kiệt – Lãnh đạo’’ của NM câm lặng!
Không biết những “ …(có) lãnh đạo – Hào Kiệt sáng suốt’’ – như PGS,TS Thao gọi, xưng tụng, kia – đã tỉnh ra chưa hay cứ vẫn tiếp tục u mê, thậm chí cố tình u mê trước các chiến dịch, nằm trong chiến lược bành trướng: Tung chưởng đá vào hạ bộ NM nhằm răn đe, nói theo ngôn ngữ dân dã hơi bị…’’chợ búa:
“Cho mày bài học nữa để biết thế nào là hậu qủa khi không chịu nghe lời, vô lễ với bố mày! Đ… mẹ mày – Làm ông mất thời gian. Giờ có nghe lời không? Để vùng biển đấy cho tao, không được om sòm…. Mày chui ra từ cái đũng quần của tao (như dăm ba đứa cả đàn ông lẫn đàn bà, cả gìa lẫn trẻ – trong chúng mày – đã nhắc nhở, lên tiếng xác nhận…). Phải biết thân biết phận con ạ!’’
Đối với “Con hổ giấy’’ (Mỹ), “Con gấu bông’’ (Nga) – kế thứ 37 của Tôn Vũ “Phẩy’’ (Tôn Vũ chỉ có 36 kế) – có thể may ra thực hiện được! Còn đối với “con gấu trúc’’ (Tầu) – Đây chỉ là ảo tưởng! Con Gấu Trúc là ẩn thân của “con sư tử ngủ’’ đã thành tinh. Bản chất của nó là hung hãn, ăn thịt và tìm cách ăn thịt tất cả mọi con mồi. Đất nước ông là con mồi hấp dẫn, béo bổ nên nó sẽ tìm mọi cách thanh toán con mồi mà nó đang thèm, như trong qúa khứ nó vẫn hướng tới, thực hiện mục đích này.
Kế của ông – mà lúc còn đang ở ngoài nhà tù – Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ – rất yêu ông, bào chữa cho ông khi ông tuyên bố ở hội nghị bộ trưởng quốc phòng khối ASEAN làm dư luận lo ngại. Đó là suy nghĩ hoàn toàn viển vông, ông nên rút lại lời nói đó (cho dù cưỡi tên lửa đã không đuổi kịp chú đừng nói “Tứ Mã Nan Truy’’). Cách chống trả hữu hiệu nhất đối với con sư tử thành tinh là: Toàn dân tộc VN phải đoàn kết, đồng lòng chống trả. Phải làm như chị Ba Định, Chị Út Tích đã làm trong chiến tranh “chống Mĩ cứu nước’’ – Còn cái lai quần cũng đánh!
- Nếu những vị đứng đầu muốn thần phục thiên triều để kiếm lợi thì… nên thôi đi, thôi nhanh, lảng xa. Các vị đang làm “Đầu gà’’, lẽ nào lại thích xuống làm “Đít trâu’’? Một ở trên đầu, cho dù là con gà, vẫn hơn tụt xuống đít – mà lại là đít con trâu!…
- Bọn Tầu thâm độc lắm! Khi đang còn cần các vị, chúng sẽ thí cho bổng lộc. Khi không còn gía trị để lợi dụng, chúng sẵn sàng vất bỏ các vị như vất chiếc khăn đang lau mặt – xuống làm khăn lau nhà xí. Trong lịch sử của TQ từ cổ chí kim : Rất nhiều kẻ làm tay sai, nhưng kẻ thù của chủ – cho chúng lợi nhiều hơn sự “cống hiến’’ của tay sai, chúng giết ngay kẻ đã cúc cung tận tụy mình để dâng cho kẻ cho chúng lợi nhiều hơn, to hơn!
- Bọn Tầu rất tráo trở, phản trắc: Chúng không bao giờ coi lời hứa là quan trọng. Chúng có câu châm ngôn cửa miệng : “Vì mục đích, bất chấp thủ đoạn’’. Mục đích hiện nay của TQ là bành trướng xuống phương nam, nuốt trọn vùng Đông Nam Á. Việt Nam là cửa ngõ, là đầu cầu nên phải dụ dỗ – mua chuộc – thậm chí tiêu diệt “giải phóng mặt bằng’’ để đắp con đường cho đoàn quân Bành trướng – tiến!
Kí kết hiệp định biên giới trên đất liền, kí hiệp định phân chia vịnh Bắc Bộ và doạ dẫm đánh chiếm biển đảo tiếp theo sau… là chứng minh rõ ràng, xác thực nhất!
- Từ năm 1990 đến năm 2000 – qua 2 nhiệm kì TBT (khóa 7 do ông Đỗ Mười. Khóa 8 do ông Lê Khà Phiêu) nắm giữ. Các ông ấy vẫn còn dè dặt, không dám kí tắt Hiệp định biên giới với TBT ĐCSTQ vì trong đó có nhiều điều bất lợi cho dân Việt, nước Việt. Chỉ đến khi ông Nông Đức Mạnh lên làm TBT 2 khóa 9,10 (2000 – 2010), bản Hiệp định bất bình đẳng trên đất liền, trên biển vịnh Bắc Bộ lập tức ra đời, đáp ứng yêu cầu của bọn đầu lãnh bá quyền Bắc Kinh.
- Tại sao vậy? Câu hỏi này xin để cho mọi người dân Việt Nam tự tìm câu trả lời, lịch sử của dân tộc ghi chép!
Đất đai của tổ tiên để lại thực chất đã bị mất nhiều! (nếu UBBGQG này công bố công khai – công bố bản vẽ đường biên cũ và đường biên mới – sẽ rõ ngay thôi).
Ông được coi là Trí thức có học hàm, học vị, chức tước, được xem như Người Quân Tử (NQT). Người quân tử thứ thiệt có bản chất: “Giầu sang không thể quyến rũ. Gian khó không thể chuyển lay. Uy vũ không thể khuất phục’’. Ông hãy ngẩng cao đầu làm một người trí thức chân chính để làm gương cho con cháu, học trò mình. Lời ghi lạị trong bài phỏng vấn khiến người nghe, người đọc giật mình, cảm thấy PGS, TS , Phó chủ nhiệm UBBGQG VN – Nguyễn Hồng Thao đang triển khai ý kiến của đại sứ TQ tại VN – ngài Tôn Quốc Tường: Hợp tác sẽ phát triển. Đối đầu sẽ thất bại.
“… Có mối liên hệ văn hóa sâu sắc. Gần đây cũng có ý kiến Kinh Dịch và tiếng Hán xuất phát từ tộc Bách Việt, mà một nhánh là Lạc Việt (Việt Nam). Lịch sử hai nước gắn bó chặt chẽ với nhau, không chỉ ngàn năm lịch sử mà cả trong thời kỳ hiện đại. Cách mạng hai nước cũng gắn bó và hỗ trợ cho nhau. Hai nước cùng có những trăn trở vươn lên, Trung Quốc với 4 hiện đại hóa, Việt Nam với Đổi mới và đều đã có những thành công.
Chúng ta không thể sống tách biệt với Trung Quốc, cũng như Trung Quốc không thể sống tách biệt với Việt Nam. Tự nhiên và lịch sử đã đặt hai nước, hai dân tộc sống cùng nhau.
Một Trung Quốc phát triển, có trách nhiệm hơn với thế giới là điều đáng mừng, là cơ hội cho Việt Nam học hỏi vươn lên. Nhiều nước trên thế giới, ở xa mong muốn hợp tác làm ăn với Trung Quốc, tại sao chúng ta ở gần hơn lại không nắm bắt cơ hội.
Một Trung Quốc mạnh cũng là thách thức không nhỏ nếu như chúng ta không chủ động vươn lên, không cải cách hành chính, kinh tế. Phải coi vị trí láng giềng của “người khổng lồ” là động lực để phấn đấu vươn lên…’’ (VietnamNet ngày 30.12.2010).
Hay cho giọng lưỡi người trí thức quan trường – Nguyễn Hồng Thao!
Phỏng Vấn Kỹ sư NGUYỄN ĐÌNH SÀI
Đặc Biệt Biên Giới Việt - Trung, Năm 2005
Thứ nhất là vì đảng CSVN đã nhượng quá nhiều đất đai cho Trung Quốc trong nhiều lần từ năm 1958 đến nay, để vừa trả nợ viện trợ chiến tranh Bắc Nam vừa có viện trợ mới về tài chính để củng cố bộ máy cai trị của chế độ và giảm thiểu phần nào sự thất bại của nền kinh tế quốc doanh. Tuy nhiên, Hà Nội biết rõ việc bán nhượng đất đai này lại phạm tội phương hại đến nền an ninh chiến lược của dân tộc từ lâu đời, nên nếu công bố bản đồ ra thì sẽ bị nhân dân lên án chế độ. Vì thế, thà Hà Nội tiếp tục giấu giếm bưng bít để giữ sự nhượng đất của họ trong tình trạng nghi vấn mơ hồ, còn hơn là bạch hóa để cung cấp thêm một chứng cớ không thể biện bạch được.
Thứ hai là cho đến nay, Hà Nội vẫn còn đang lúng túng với những dữ kiện trái ngược giữa bản đồ của họ và bản đồ của Trung Quốc. Mặc dù trên giấy tờ của Hiệp Định 1999, thì Hà Nội đã thỏa thuận nhượng quá nhiều đất rồi, đặc biệt là các vùng có mỏ quý và các vùng nằm trong các vị thế chiến lược ảnh hưởng đến nền quốc phòng của hai nước mà quân đội xâm lăng của Trung Quốc rải mìn sau khi rút lui, nhưng trên thực tế thì ngoài các vùng đó ra, có nhiều vùng mà bản đồ của Hà Nội ghi địa danh Việt Nam và đường biên giới nằm phía bắc, thì bản đồ của Trung Quốc lại ghi địa danh Trung Quốc và đường biên giới nằm phía nam. Tức là có những vùng "trùng nhau" (overlap) mà hai bên đều xác định là lãnh thổ của mình. Phía Hà Nội yếu thế ở chỗ cơ quan nghiên cứu "Khoa Học Địa Dư" chưa có hệ thống vẽ bản đồ chính xác và hiện đại như của Trung Quốc hay của Hoa Kỳ, vì không có có các vệ tinh (satellites) như Mỹ và Trung Quốc, nên không thể mạnh dạn chứng minh để tranh chấp đối với các vùng mà Hà Nội nghi rằng Bắc Kinh còn lấn chiếm trên thực tế nhiều hơn là trên giấy tờ.
Muốn đặt cột mốc, các trắc lượng viên phải có bản đồ có các tọa độ tung và hoành tuyến cùng các dữ kiện chi tiết khác như cao độ, hướng và khoảng cách giữa các điểm, để căn cứ vào đó mà xác định vị trí của các dấu trắc lượng (survey mark) của cột mốc trên đất để sau đó cột mốc mới xây lên. Chứ không phải cứ xây bừa cột mốc lên rồi mới vẽ bản đồ theo đó!
Sau khi cột mốc được xây xong thì có thể kiểm lại và điều chỉnh tọa độ trên bản đồ cho chính xác. Nhưng việc điều chỉnh này rất hiếm, ngoại trừ trường hợp chỗ đặt cột mốc có nền đá quá cứng hay bùn lầy quá mềm mà toán hoạch định bản đồ dùng để xây cột mốc không biết, nên không thể xây được nếu không muốn quá tốn kém. Trong trường hợp này, với sự đồng ý của hai bên, vị trí mới của cột mốc chỉ phải di chuyển càng gần vị trí nguyên thủy càng tốt và cũng không thể nằm lệch ra ngoài đường biên giới do bản đồ ấn định trước.
Trong bài viết "Biên Giới Việt Trung: Đi Tìm Sự Thật Sau Những Che Giấu", hiện nay còn đăng trong phần Nghiên Cứu, trang nhà của Hội Chuyên Gia Việt Nam, tôi có giải thích khá tường tận cách ấn định đường biên giới, vẽ bản đồ và xây cột mốc. Việc vẽ bản đồ này nằm trong giai đoạn 2 của tiến trình 5 giai đoạn trong việc thi hành Hiệp Định 1999 và phải được phổ biến cùng với bản văn của Hiệp Định 1999 đúng như điều cuối của hiệp định đó. Cho nên nếu nói vì cột mốc chưa xây xong mà không thể phổ biến bản đồ biên giới là sai lầm và hành động ngược lại văn bản. Việc cần làm của Hà Nội là phải phổ biến bản đồ của Hiệp Định 1999, nhất là vì bản văn của nó lại rất mơ hồ. Sau khi việc cắm mốc hoàn tất, dự trù trong năm 2005 này, thì xác định lại những chỗ không thể cắm mốc được bởi tình trạng nền đất không thích hợp, phải bất đắc dĩ thay đổi địa điểm mà thôi.
- Tìm ra sự thật về các hiệp định 1999 và 2000 và những bí ẩn mà nhà cầm quyền Hà Nội đang triệt để che giấu, bưng bít ngay cả đại biểu Quốc hội của họ.
- Vận động gây quỹ để tài trợ cho những toán trắc lượng mang theo các dụng cụ GPS đến tận nơi cắm mốc để xác định vị trí chính xác.
- Với các dữ kiện do toán trắc lượng cung cấp, vẽ đường biên giới mới một cách chính xác, để so sánh sự khác biệt giữa bản đồ này với bản đồ giai đoạn 2 theo Hiệp định, và bản đồ đã có từ trước khi Trung Quốc lấn chiếm Việt Nam từ năm 1958 đến nay.
Đây là một công tác khá đồ sộ, có thể quá tầm mức và khả năng của Hội Đồng Bảo Toàn Đất Tổ. Hiện nay, ban Địa Dư có 3 thành viên, trong số đó, có một chuyên gia dù sẵn lòng cộng tác nhưng lại không muốn minh danh. Hiện chúng tôi chỉ mới thảo luận khái quát về những nhu cầu và trọng tâm nghiên cứu, còn việc thực sự nghiên cứu thì còn tùy theo dự án riêng của mỗi cá nhân mà thôi. Dù vậy, tôi có lưu tâm đến thành quả sơ khởi của một vị trong ban với một công trình nghiên cứu khá công phu vừa được phổ biến. Gần đây, vì nhu cầu nghiên cứu về biên giới Việt Trung theo kỹ thuật mới, tôi cũng đã nhờ một người bạn Hoa Kỳ vốn là một Trắc Lượng Gia chuyên nghiệp (Professional Land Surveyor) giúp đỡ tài liệu và dụng cụ, nên có thể nói vị thân hữu này cũng là một thành viên "bán chính thức". Chúng tôi thấy không cần thiết để phổ biến tên tuổi của những thành viên và người cộng tác.
Trong những năm tháng tới, chưa biết công cuộc nghiên cứu có thể tiến triển thêm như thế nào, và bao giờ thì hoàn tất. Bởi vì các việc làm có tính cách "tình nguyện" này còn tùy thuộc vào sự hưởng ứng tham gia của các chuyên gia khác trong các ngành Trắc Lượng và Công Chánh, cũng như sự hỗ trợ mọi mặt của đồng bào trong nước và hải ngoại cho việc làm có ý nghĩa này. Nếu Hà Nội cho phổ biến bản đồ hiệp định thì công việc nhẹ đi nhiều lắm. Nhưng nếu họ vẫn nhất định giấu giếm thì công việc vẫn tiến hành được nhưng khó khăn hơn.
Tôi chưa có thì giờ đối chiếu với bản đồ cũ để tính tỉ mỉ và chính xác diện tích đã mất là bao nhiêu km2 suốt dọc biên giới. Tuy vậy, chỉ mới ước tính đường biên giới dài 175 km từ chỗ con đường xuyên biên Cao Bằng - Quảng Tây chạy qua và chỗ khởi đầu quốc lộ số 1 tại Ải Nam Quan tỉnh Lạng Sơn, thì thấy giải đất dọc 175 km đường biên giới, trước kia thuộc đất Việt mà nay dân Tàu sở hữu, có bề ngang trung bình là 5 km. Như vậy diện tích lãnh thổ Việt Nam đã bị nhượng cho Trung Quốc dọc biên giới của Cao Bằng - Lạng Sơn và Quảng Tây - Long Châu là vào khoảng 875 km2. Muốn tính diện tích chính xác thì không khó. Ngày xưa các chuyên viên dùng dụng cụ "planimeter" để đo diện tích. Đối với các nhu liệu điện toán đo đạc thời nay, như Engineering Softdesk chẳng hạn, chỉ cần bấm "con chuột điện tử" vào các điểm dọc theo biên giới mới và cũ, giáp vòng, thì sẽ biết diện tích rất chính xác. Nhưng việc này chưa cần thiết.
Mới đây, ông Vũ Hữu San, một chuyên gia về hàng hải và địa dư, vừa hoàn tất một bài nghiên cứu công phu, mà độc giả có thể tìm thấy qua trang web sau:
http://members.tripod.com/paracels74/bandophanchiaVinhBV.htm
Trong bài này, ông San cũng đề cập đến "tài liệu mật" ngay trong câu mở đầu của bài nghiên cứu:
"Theo Ông Nguyễn Ngọc Giao: Văn bản hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộhttp://members.tripod.com/paracels74/ - _ftn1 đến nay vẫn chưa được công bố, bản đồ đính kèm "bản tài liệu mật" cũng không được phổ biến."
Và cũng như tôi, ông không hề trưng chứng cớ về "tài liệu mật" hay xuất xứ của "ông Nguyễn Ngọc Giao". Trong một đoạn dưới tiêu đề "Thâm Ý của Trung-Hoa", ông cũng lại đề cập đến "sự gian dối" của Trung Quốc như sau:
"Nguồn lợi của tài-nguyên rõ-ràng đã thúc-đẩy Trung-Hoa lấn hải-phận Việt-Nam."
Tôi xác nhận là tôi đã không dùng tài liệu có cùng "xuất xứ" với các tài liệu của ông San. Tuy nhiên, có một điều mà tôi có thể khẳng quyết được, là đưa ra một lời thách thức hai nhà cầm quyền Bắc Kinh và Hà Nội. Nếu họ không hề ký một "khế ước mật" nào ngoài hai hiệp ước năm 2000 về biên giới lãnh hải và về vùng đánh cá chung, thì họ hãy ra thông cáo xác nhận "không hề có khế ước mật về việc Hà Nội nhượng độc quyền khai thác dầu khí cho Bắc Kinh".
Năm 1958, khi Phạm Văn Đồng gởi thư cho Chu Ân Lai, chấp nhận nhượng biển Đông, Hoàng Sa và Tây Sa cho Trung Quốc, lá thư không hề được Hà Nội tiết lộ. Mãi cho đến gần nửa thế kỷ sau thì Bắc Kinh mới cho công bố, vì Hà Nội muốn tráo trở đòi tranh chấp hai quần đảo này. Đó là bí ẩn giải thích tại sao Hà Nội đã "thủ khẩu như bình" khi Trung Quốc tiến chiếm Hoàng Sa vào năm 1974.
Nói tóm lại, một "khế ước mật" chưa được trưng bằng cớ không có nghĩa là "không có bản khế ước". Trong tạm thời, những ai nghi ngờ về sự chân giả của bản "khế ước mật", xin hãy suy nghĩ đến các câu hỏi sau đây:
- Tại sao "vùng đánh cá chung" lại bao cả vùng có túi dầu khí ở dưới đáy biển, mà lại không bao cả vùng ngoài khơi Hải Phòng có nhiều hải sản hơn?
- Tại Sao Hải Quân Trung Quốc có quyền tuần tiểu, bắt giữ và bắn giết ngư dân Việt Nam ngay trong hải phận Việt Nam?
- Tại sao Hải Quân CSVN không hề lai vãng tuần tiểu trong vùng trong suốt thời gian xảy ra vụ tàn sát?
Tôi lại hỏi thêm hai câu cho những ai muốn bênh vực đảng CSVN:
- Tại sao Hà Nội giữ im lặng cả tuần lễ cho đến khi thân nhân của ngư phủ kêu than, rồi mới lên tiếng xác nhận và gởi công hàm phản đối lấy lệ về việc Trung Quốc tàn sát xảy ra trong hải phận Việt Nam?
- Tại sao Hà Nội ngăn cản và bắt giam các sinh viên trẻ tụ họp biểu tình phản đối Trung Quốc trong tuần lễ đầu sau khi xảy ra vụ bắn giết?
"The only way to give our maritime defense a solid basis is to intensify our naval buildup and upgrade our naval buildup defense capability. We cannot resolve problems with political or diplomatic measures until we have great naval strength, and only then will it be possible to overcome our enemies without engaging in battles. If intimidation fails to achieve any effects, we would then be able to actually deal an effective blow."
Hiện nay Trung Quốc đã hoàn tất phi trường cho chiến đấu cơ phản lực tại Hoàng Sa và Trường Sa. Bằng vào sự kiện này, nếu sau này chiếc cầu tàu tại giàn khoan dầu trong Vịnh Bắc Việt trở thành một pháo đài tấn công Hà Nội, thì chỉ là một tiến trình tất yếu mà thôi. Những ai nghĩ mình là người Việt Nam còn có tình yêu thiết tha đối với dân tộc không thể không quan tâm đến vấn nạn này.
Trải qua 19 năm đàm phán, phân giới cắm mốc biên giới, năm 2010, Việt Nam và Trung Quốc chính thức có được đường biên giới hòa bình, hữu nghị, với việc các hiệp định về phân giới cắm mốc Việt-Trung chính thức có hiệu lực.
Nỗ lực để đi đến đàm phán thành công, thế nhưng, ngay khi kết thúc đàm phán biên giới Việt - Trung, những nhà đàm phán Việt Nam lại phải đối mặt với những đồn đoán trong dư luận rằng hình như Việt Nam đã nhượng bộ cho Trung Quốc khá nhiều. Thay vì ghi công, có người đòi "hỏi tội" những người đàm phán. Là người trong cuộc, ông có thể chia sẻ điều gì?
Nói thế để thấy rằng hai bên đều đã rất nỗ lực, rất thận trọng, kiên trì, phấn đấu để có kết quả công bằng, chính xác nhất.
Chúng tôi hiểu rằng biên giới là vấn đề thiêng liêng của mọi quốc gia, dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam thì vấn đề chủ quyền lãnh thổ lại càng thiêng liêng cao cả. Dân tộc ta từ nghìn xưa đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và khát khao mong muốn được sống trong hòa bình, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng.
Sự chỉ đạo của lãnh đạo: một tấc đất của đất nước không để mất và một tấc đất của nước bạn cũng không vi phạm. Không phải với Trung Quốc, mà với cả Lào và Campuchia, chúng ta đều có lập trường nhất quán, thủy chung như vậy.
Tôi rất tâm đắc lời dạy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Lịch sử chỉ xảy ra có một lần, nhưng viết về lịch sử thì nhiều lần, bởi nhiều người để đi đến có cái hiểu thống nhất về lịch sử. Khi đứng trước vấn đề phân chia lãnh thổ, động chạm đến quyền lợi dân tộc, rất nhiều người quan tâm, bày tỏ ý kiến, đó là điều đáng mừng khi người dân thực hiện quyền công dân của mình. Nhưng cũng không thể không tránh khỏi có những ý kiến khác nhau nhất là khi thông tin chưa đầy đủ hay xem xét vấn đề từ những góc nhìn khác nhau. Đã làm biên giới, thì không còn cách nào khác là chấp nhận khó khăn thách thức, phải dám chịu trách nhiệm, đàm phán giải quyết trên cơ sở pháp lý-chính trị, phù hợp luật pháp quốc tế.
Chỉ xin nhắc lại một kỷ niệm. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, 98 tuổi còn tham gia với chúng tôi, hỏi rất kỹ những địa danh mà Đại tướng đã đi qua trong những ngày chỉ đạo chiến dịch biên giới, đóng góp vào phương án cuối cùng, dặn dò chúng tôi: "Các cháu đã làm rất tốt, phải biết nắm thời cơ, phải giữ vững chủ quyền lãnh thổ nhưng cũng không làm gì tổn hại đến tình hữu nghị".
Kết quả cuối cùng đã được đa số đồng tình ủng hộ. Làm đúng cơ sở pháp lý, phù hợp với luật pháp quốc tế, lợi ích của nhân dân, được sự đồng tình ủng hộ của đa số dư luận trong và ngoài nước thì sao lại phải ngại. Quyết tâm của lãnh đạo hoàn thành phân giới cắm mốc vào cuối năm 2008 là một quyết định sáng suốt, để tập trung vào vấn đề trên biển.
Thời gian sẽ cho câu trả lời chính xác nhất, sẽ có sự đánh giá khách quan nhất.
- Còn nhớ, ngay khi hai nước kết thúc đàm phán, trên nhiều trang mạng, đã có những thông tin (không rõ cơ sở) nói rằng Việt Nam đã mất hàng ngàn cây số vuông đất cho Trung Quốc. Thậm chí, Việt Nam đã "cắt đất" cho Trung Quốc...
Không có chuyện "Việt Nam mất đất", "cắt đất" như họ nói. Chỉ có thể giải thích rằng những mạng này hoặc do thiếu thông tin hoặc cố tình làm sai lệch thông tin vì những ý đồ khác nhau.
Là người trực tiếp đàm phán, chúng tôi biết rõ, toàn bộ khu vực tranh chấp Việt Nam - Trung Quốc có trên 200 km2, Hiệp ước hoạch định biên giới 1999 đã quy thuộc về Trung Quốc 117,2 km2, quy thuộc về Việt Nam là 114,9 km2. Như vậy các khu vực tranh chấp đã được quy thuộc một cách tương đối công bằng, có thể chấp nhận được. Quá trình Phân giới cắm mốc chỉ là đưa đường biên giới trên bản đồ Hiệp ước 1999 ra thực địa.
Sau 1 năm phân giới cắm mốc và 6 tháng Nghị định thư về phân giới cắm mốc, Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về Quy chế quản lý cửa khẩu biên giới Việt-Trung có hiệu lực (từ ngày 14/7/2010), số vụ vi phạm về biên giới đã giảm đi rất nhiều, giao lưu phát triển, công tác quản lý đi vào chiều sâu, hợp tác hiệu quả.
Nếu có dịp lên thăm các làng bản biên giới, bạn cũng sẽ thấy bà con hết sức phấn khởi.
Như vậy, thực tế đã chứng minh việc làm của chúng ta là đúng đắn, được người dân ủng hộ. Nếu dân không ủng hộ, thì hẳn nhiên là quyết sách có vấn đề; trường hợp ngược lại tức là hợp với lợi ích của nhân dân.
Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác Hồ đã đi tìm hình của nước, thế hệ chúng ta lãnh trách nhiệm trước lịch sử "dựng hình" của nước đánh dấu bằng các cột mốc hiện đại. Đã vì đất nước thì phải dấn thân.
Đến lúc này, chúng tôi có quyền tự hào được báo cáo với đất nước, với Nhân dân đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Đất nước, tạo môi trường thuận lợi cho đất nước phát triển và hội nhập, xây dựng tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng. Không có chuyện để xảy ra sơ sẩy, mất đất, bán nước ở đây.
Ví dụ, khi kí xong 1 Hiệp định, rất nhiều người sẽ nói phải công bố ngay số liệu, không công bố tức là có dấu hiệu mờ ám, mất đất. Thực tế có phải như vậy không?
Trên thực tế, như đường biên giới với Trung Quốc có đến 1971 cột mốc, mỗi mốc 1 bộ hồ sơ riêng. Sau khi phân giới cắm mốc xong, lực lượng kĩ thuật còn phải kiểm tra, rà soát từng li từng tí, đối chiếu, khi tất cả đã chuẩn, đã khớp mới có thể ra Nghị định thư. Riêng việc in bản đồ kèm theo cũng phải hàng trăm lần. Chỉ một sai sót về mầu sắc, về độ nét to nhỏ là phải bỏ hết in lại.
Như vậy, với những số liệu chưa được kiểm định, liệu có thể công bố được chưa? Thành quả của quá trình đàm phán nằm trong hơn 2.500 trang tài liệu, bao gồm cả bản đồ và những lời văn mô tả, chứ không đơn giản như một số người nghĩ cứ tuyên bố hoàn thành Phân giới cắm mốc là xong, là đã có đường biên giới mới.
Đến nay, khi các văn kiện về đường biên giới mới đã được phê chuẩn và có hiệu lực theo đúng thủ tục giữa hai nước, chúng đều đã được công bố chính thức trên các mạng của Chính phủ, mọi người có thể tham khảo (www.biengioilanhtho.gov.vn - PV).
Tuy nhiên, không ít người vẫn băn khoăn, trong đàm phán luôn phải có những thỏa hiệp, nhượng bộ lẫn nhau. Trong suốt 19 năm đàm phán, phân giới cắm mốc biên giới Việt - Trung ấy, việc thỏa thuận, nhân nhượng và thỏa hiệp như thế nào, thưa ông?
Nghĩa vụ của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc là phải đàm phán hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Đàm phán chỉ có kết quả khi hai bên đều có thiện chí.
Để đạt tới mục tiêu có được một đường biên giới hòa bình hữu nghị, ổn định, hợp tác, rõ ràng, đánh dấu bằng những Hiệp định, những cột mốc, thì cần có thiện chí, hợp tác với nhau. Trong đàm phán cũng có những sự điều chỉnh trên cơ sở cân bằng về diện tích và lợi ích. Điều chỉnh chứ không phải nhân nhượng.
Nói thì dễ, nhưng làm không dễ. Trong điều kiện chịu áp lực trong và ngoài nước, trên bàn đàm phán và trên thực địa, đòi hỏi phải có bản lĩnh dám chịu trách nhiệm, nắm vững cơ sở pháp lý - kĩ thuật, hiểu biết sâu sắc thực địa, đào sâu nghiên cứu mới có thể có bước đi đúng.
Lần đàm phán cuối cùng, hai bên đã tiến hành 13 vòng đàm phán chính thức cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ, rất nhiều cuộc gặp hai Trưởng đoàn, 31 vòng đàm phán cấp Chủ tịch Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc. Càng về cuối đàm phán càng khó khăn, phức tạp. Riêng năm 2008, hai bên đã tiến hành 11 vòng đàm phán cấp Chủ tịch, vòng ngắn nhất kéo dài 9 ngày, vòng dài nhất 23 ngày. Có những lần, chúng tôi đã ngồi đàm phán liên tục đến 32 tiếng đồng hồ không nghỉ. Thậm chí, có lúc, vài chục tiếng ngồi trong phòng không phải để thảo luận, mà để "cân não".
Ngày 31/12/2008, 19g Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ, thay mặt hai đoàn Việt Nam, Trung Quốc đã ra tuyên bố chung về việc hoàn thành phân giới cắm mốc, thế nhưng, cuộc đàm phán vẫn chưa đi đến hồi kết. Hai bên đã thống nhất về văn bản đường biên giới đi qua thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân nhưng lại phát hiện ra việc thể hiện trên bản đồ đính kèm của hai bên có sự khác biệt. Chúng tôi tiếp tục thảo luận.
Để khích lệ anh em chuyên viên chúng tôi, trưởng đoàn ta úy lạo anh em một chai Nếp Mới. Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường góp chai Mao Đài. Nhân đó trưởng đoàn ta vịnh bốn câu thơ:
Đêm nay Nếp Mới với Mao Đài
Việt - Trung hữu nghị tình thắm mãi
Giữ trọn niềm tin hướng tương lai".
Không riêng gì đàm phán, mà ngay cả khi phân giới cắm mốc cũng có lúc gặp khó. Năm 2007, tốc độ phân giới cắm mốc chậm hẳn lại do các khu vực tồn đọng đều là các khu vực nhạy cảm, có lịch sử tranh chấp lâu đời, khó giải quyết. Có tháng, có nhóm phân giới cắm mốc không cắm được cột mốc nào. ...
Nhưng nhờ thiện chí và nỗ lực của hai bên, Việt Nam - Trung Quốc đã giải quyết hợp tình hợp lý những khu vực tranh chấp biên giới, kết thúc việc hoạch định, phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung dài 1450 km.
- Như ông đã nói, không có chuyện nhân nhượng trong đàm phán biên giới Việt - Trung, chỉ có những sự điều chỉnh trên cơ sở cân bằng về diện tích và lợi ích. Ông có thể làm rõ hơn ý này?
Biên giới xây dựng lên cũng là nhằm mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ đời sống yên bình của người dân. Mọi quyết định đều không thể không tính đến yếu tố lấy dân làm gốc, dựa trên tình hình thực địa.
Trên cơ sở đó, ví dụ bản Ma Lỳ Sán (xã Pà Vày Xủ, huyện Sín Mần, tỉnh Hà Giang) của Việt Nam nằm quá đường biên giới được hoạch định và Phân giới cắm mốc chính thức về phía Trung Quốc trong khi 13 nóc nhà của nhân dân Trung Quốc gần biên giới Hang Dơi (Lạng Sơn) lại nằm quá sang đường biên giới được hoạch định và Phân giới cắm mốc chính thức về phía Việt Nam, hai bên đã thống nhất điều chỉnh cho nhau trên cơ sở giữ nguyên diện tích để bảo đảm đời sống dân cư. Nhân dân hai khu vực này rất đồng tình. Đây cũng là việc thường xảy ra trong thực tiễn quốc tế khi giải quyết các vấn đề biên giới.
Theo Hiệp ước 1999, đường biên giới được xác định theo nguyên tắc trung tuyến dòng chảy chính nhưng chưa thể hiện đường biên giới chính thức (chỉ ghi nhận hai đường nét đứt thể hiện quan điểm hai bên).
Với một thác nằm ở đường biên giới, theo luật quốc tế sẽ được 2 bên sử dụng như nhau, biên giới đi theo đường trung tuyến dòng chảy ở những nơi tàu thuyền không qua lại được hoặc theo đường trung tuyến luồng ở những nơi tàu thuyền qua lại được. Đó là nguyên tắc cũng từng được chúng ta áp dụng để giải quyết vấn đề biên giới với các bạn Lào, Campuchia.
Giải pháp Việt Nam và Trung Quốc đã thoả thuận là đường biên giới đi từ mốc 53 cũ, qua cồn Pò Thoong, đến điểm giữa của mặt thác chính, theo trung tuyến dòng chảy chính trên sông Quây Sơn. Như vậy, Phần thác phụ hoàn toàn thuộc phía Việt Nam, còn phần thác chính đổ thẳng xuống sông Quây Sơn là sông chung biên giới, được phân chia theo trung tuyến dòng chảy chính.
Hiện nay 2 nước đang đàm phán để phát triển toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thành khu vực tự do du lịch, để nhân dân 2 nước đều được ngắm cảnh đẹp, thúc đẩy giao lưu phát triển du lịch.
Về khu vực Hữu nghị quan: Theo các tài liệu lịch sử đang được lưu giữ, Trấn Nam Quan hay còn gọi là Ải Nam Quan đều nằm bên phía Trung Quốc, đường biên giới nằm phía nam Trấn Nam Quan. Theo "Đại Nam Nhất thống chí" của Viện Khoa học xã hội Việt Nam dịch Hán Nôm, giới thiệu năm 1962, Trấn Nam Quan được xây dựng từ thời nhà Minh; sau đó, đời Nhà Thanh cho tu bổ lại. Dấu tích lịch sử quan trọng của khu vực cửa khẩu Hữu nghị còn lại là mốc 19 cũ do Pháp Thanh cắm năm 1894.
Vừa qua Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành cắm mốc 1117 trùng với vị trí mốc 19 cũ, đường biên giới đi qua Km số 0, mốc 19 cũ đến điểm cách điểm nối ray hiện tại 148m về phía Bắc.
Như vậy có thể khẳng định đường biên giới tại cửa khẩu Hữu nghị vừa được phân giới cắm mốc là phù hợp với lịch sử, với Hiệp ước 1999 và thực tiễn quản lý ở khu vực này.
- Là một nước nhỏ đàm phán với một đối tác lớn như Trung Quốc, có khi nào Việt Nam bị lép vế?
Trong thời đại phát triển luật pháp như hiện nay, tất cả các nước đều bình đẳng, dù lớn hay nhỏ, số dân nhiều hay ít. Nắm vững nguyên tắc đó, tâm thế đó, ta bước vào đàm phán một cách sòng phẳng, ngang hàng với đối tác.
Hơn nữa, Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm trong đàm phán với các đối tác lớn rồi. Chúng ta đã từng cùng các cường quốc như Pháp, Mỹ ngồi lại, bàn về nền hòa bình cho Việt Nam. Lúc đó, có ai nghĩ ta có thể bước ra khỏi đàm phán với tư thế của người ngang hàng? Nhờ chính nghĩa, biết phát huy thế mạnh, dựa vào luật pháp quốc tế, Việt Nam đã thành công.
- Qua thời gian dài đàm phán với Trung Quốc, ông đúc rút được điều gì trong cuộc chơi bình đẳng, công bằng với một nước lớn như vậy? Theo ông, điều gì để Việt Nam tạo dựng và giữ được thế bình đẳng, ngang hàng với đối tác lớn?
Tôi nghĩ chúng ta cần phải xuất phát từ thực tế chúng ta là một nước láng giềng với Trung Quốc và là một nước láng giềng có vị trí tương đối đặc biệt với Trung Quốc. Hai nước có biên giới tương đối dài, gắn bó. Có cả biên giới đất liền và biên giới biển. Có mối liên hệ văn hóa sâu sắc. Gần đây cũng có ý kiến Kinh Dịch và tiếng Hán xuất phát từ tộc Bách Việt, mà một nhánh là Lạc Việt (Việt Nam). Lịch sử hai nước gắn bó chặt chẽ với nhau, không chỉ ngàn năm lịch sử mà cả trong thời kỳ hiện đại. Cách mạng hai nước cũng gắn bó và hỗ trợ cho nhau. Hai nước cùng có những trăn trở vươn lên, Trung Quốc với 4 hiện đại hóa, Việt Nam với Đổi mới và đều đã có những thành công.
Chúng ta không thể sống tách biệt với Trung Quốc, cũng như Trung Quốc không thể sống tách biệt với Việt Nam. Tự nhiên và lịch sử đã đặt hai nước, hai dân tộc sống cùng nhau.
Một Trung Quốc phát triển, có trách nhiệm hơn với thế giới là điều đáng mừng, là cơ hội cho Việt Nam học hỏi vươn lên. Nhiều nước trên thế giới, ở xa mong muốn hợp tác làm ăn với Trung Quốc, tại sao chúng ta ở gần hơn lại không nắm bắt cơ hội.
Một Trung Quốc mạnh cũng là thách thức không nhỏ nếu như chúng ta không chủ động vươn lên, không cải cách hành chính, kinh tế. Phải coi vị trí láng giềng của "người khổng lồ" là động lực để phấn đấu vươn lên. Nguyễn Trãi đã từng dạy: Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau nhưng hào kiệt đời nào cũng có.
Có lãnh đạo (hào kiệt) sáng suốt, đường lối độc lập tự chủ, dám chịu trách nhiệm, dám chịu trách nhiệm, dám sáng tạo, thu phục nhân tài, đoàn kết nhất trí trên dưới, bình tĩnh giải quyết các vấn đề nảy sinh trên cơ sở luật pháp quốc tế, có chiến lược không vì thắng lợi nhỏ, thắng lợi trước mắt mà quên đi mục tiêu lâu dài, thủy chung. làm bạn với tất cả bạn bè quốc tế. Những bài học đó của ông cha không bao giờ cũ cả.
Bạn hãy nhìn lại lịch sử, vào những thời điểm quyết định, đứng trước những thử thách gay go nhất, trước những "đối thủ, đối tác" tiềm lực mạnh hơn nhiều, dân tộc ta vẫn đi lên, vẫn tồn tại vì chúng ta biết lấy nhu thắng cương, lấy chính nghĩa khắc sức mạnh, dĩ bất biến ứng vạn biến.
Đồng thời, phải hiểu được văn hóa của nhau. Mỗi nước đều có lòng tự hào của riêng mình. Đối tác luôn tự hào về thể diện nước lớn còn chúng ta luôn tự hào về ý chí kiên cường của dân tộc không bao giờ chịu khuất phục trước sức mạnh.
- Đã có những thỏa thuận pháp lý, đã hoàn thành phân giới cắm mốc, nhưng việc tuân thủ pháp lý ở đường biên vẫn là một thách thức. Theo ông, chúng ta phải làm gì để đường biên giới hai nước thực sự hòa bình, hữu nghị, không có chuyện gặm nhấm từng bước theo nhiều cách khác nhau?
Trong thế giới hiện đại, ở đâu cũng có đấu tranh và hợp tác. Vấn đề Biển Đông phức tạp và nhạy cảm, là một trong những vấn đề khó do lịch sử để lại.
Để giải quyết tốt vấn đề chúng ta đã chú trọng cho công tác nghiên cứu. Vừa qua ngay ở Lý Sơn, ở Huế, người dân cũng hưởng ứng đóng góp nhiều văn bản có giá trị. Chúng ta có nhiều nghiên cứu của nhiều thế hệ...
Có thể so sánh về số lượng các Viện nghiên cứu, các công trình nghiên cứu thì chúng ta có thể ít, nhưng chất lượng nghiên cứu ngày càng được nâng cao. Cuốn sách Việt Nam và các tranh chấp trong Biển Đông của tôi viết bằng tiếng Pháp đã được tặng giải thưởng luật biển quốc tế INDEMER năm 2000 và được Nhà xuất bản dannh tiếng Pedone xuất bản năm 2004.
Nói như vậy không phải đề cao cá nhân, sự đóng góp của cá nhân rất nhỏ bé nhưng lập luận của mình về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, về giải pháp cho vấn đề Biển Đông được giới khoa học luật quốc tế ghi nhận trong khi chưa có tác phẩm nào của học giả Trung Quốc về Biển Đông được giải thưởng cả.
Mình có lập luận có căn cứ, có chính nghĩa, phải tự tin, dám đấu tranh mới thành công.
Đây là cuộc đấu tranh còn lâu dài, gian khổ, cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ, đưa vấn đề Biển Đông vào chương trình giảng dạy, nghiên cứu, động viên các em phấn đấu, nghiên cứu. Cần đầu tư hơn nữa cho việc xây dựng, sưu tầm hồ sơ pháp lý, đào tạo cán bộ pháp lý luật quốc tế, luật biển.
Hy vọng trong thời gian không xa, chúng ta có những thẩm phán người Việt tham gia vào Tòa án quốc tế La Hay, Tòa án quốc tế Luật biển.
Trong lĩnh vực Toán học chúng ta đã có Ngô Bảo Châu, nhưng để có những người Việt tham gia vào các tổ chức tài phán quốc tế hay trở thành lãnh đạo của các Tổ chức quốc tế phục vụ cho hòa bình và công lý quốc tế thì chúng ta còn phải phấn đấu, phải đầu tư nhiều hơn nữa. Người Myanma, người Hàn Quốc đã từng và đang giữ vị trí Tổng Thư ký Liên hợp quốc, người Thái Lan đã từng lãnh đạo WTO. Chúng ta phải phấn đấu, phải có chiến lược bài bản, không tự ti, sánh vai cùng các cường quốc năm châu trong tiến trình hội nhập và phát triển.
-------------
Mất 1/2 Thác Bản Giốc
-----------
Lối qua lại của một lòai cuồng khấu
Mà Nam Quan đau xót đến nghìn năm ...”
» Dịch giả:
» Thể lọai: Điểm nóng
» Số lần xem: 13107
PHẢN QUỐC: tội rõ ràng !
Đối diện tòa Lịch sử
Chạy thoát án này chăng?
28-2-2003
Kẻ bán ải Nam Quan ...
Lũ Cốt Tinh họ Bạch
Hiện nguyên hình Việt gian.
Lũ Việt gian phản quốc
Thời nào cũng thế thôi!
Vì quyền lợi ích kỷ
Chúng bán đứng giống nòi.
Xưa: Thiêm Bình, Di Ái,
Tiếp Chiêu Thống họ Lê
Tiếp Gia Long, Tự Đức . . .
Nay thêm tập đoàn Lê.
28-2-2003
Từ mục Nam Quan đến mũi Cà Mau"
Sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã
(Bình Ngô đại cáo)
(Trần Nhân Tông)
Đã nhiều phen vì nước gian lao.
Tôi hy vọng tình hữu nghị rất đáng trân trọng được Hồ Chủ tịch và Mao Chủ tịch dày công vun đắp đã bị BCT Giang Trạch Dân và BCT Lê Khả Phiêu quên lãng và chối bỏ, thì BCT Hồ Cẩm Đào và BCT Nông Đức Mạnh hẳn sẽ trân trọng và phát huy rực rỡ trong thế kỷ mới. Nghĩa là:
Sử xanh phủ nhận sạch trơn rồi!
Nỡ để non sông măc hận này!
Cúi đầu,“bảo kê” người dâng ải.
TRẦN KHUÊ
Từ Nam Quan đến Bản Giốc
** Trước đó, Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp xong (tháng 4.2001) : ông Lê Khả Phiêu thôi chức tổng bí thư ; chấm dứt chế độ cố vấn (bắt đầu từ cuối năm 1986 với Đại hội VI)
*** Từ giữa năm 2000, cuộc đấu tranh nội bộ diễn ra ác liệt để chuẩn bị đại hội. Hai cố vấn Đỗ Mười và (nhất là) Lê Đức Anh " ra sức " đòi cách chức tổng bí thư Lê Khả Phiêu (người mà họ đã đưa vào chức này hai năm trước đó). Một danh sách 7 tội trạng của ông Phiêu được rỉ tai lan truyền. Trong 7 tội đó, có tội " quá nhân nhượng Trung Quốc " trong hiệp định biên giới. " Tin " này được tung ra với những chi tiết " cụ thể " (hơn 700 km vuông, ải Nam Quan, thác Bản Giốc vân vân) qua mạng lưới của tình báo quân đội (mà tướng Lê Đức Anh đã nâng cấp từ Cục 2 lên Tổng cục 2), nên được mang vỏ ngoài của một thông tin mật, đáng tin cậy (xem *). Đối sách của ông Phiêu là cho phòng A10 điều tra và gia sản của các cố vấn và gia đình và doạ phổ biến kết quả cuộc điều tra. Tương quan lực lượng đã dẫn tới sự thoả hiệp nói ở điểm ** trên đây.
(*) Xin đơn cử hai ví dụ đã kiểm tra : một uỷ viên Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã viết thư cho ông bí thư thành uỷ yêu cầu thông tin về Hiệp định biên giới, sau nhiều tháng vẫn không được hồi âm ; ở Hà Nội, Huế cũng như ở Sài Gòn, người ta đã sao chụp bài báo Diễn Đàn nói về hiệp định biên giới để phổ biến, coi đó là tài liệu duy nhất đáng tin !
Thư mục: Tổng hợp
Đề tài: Quan hệ Việt - Trung
Nguồn: freevn.wordpress.com
http://www.dcvonline.org
http://www.dcvonline.org/modules.php?name=News&file=article&sid=5813
…Trong quá trình đàm phán, chúng ta yêu cầu Trung Quốc trả lại các điểm cao. Trước khi ký hiệp ước, Trung Quốc trả lại 15 điểm cao. Còn lại 12 điểm cao, ta đấu tranh quyết liệt, và cuối cùng còn lại 6 điểm cao, cuối cùng thì chúng ta đưa đường biên giới chạy lên giữa các điểm cao đó.”
Nguồn ảnh: blogger Điếu Cày
Toàn cảnh Thác Bản Giốc)
Vậy lời khai này, nếu có đúng là sự thật, thì đã tự nó tố cáo có chấp thuận chuyển nhượng một diện tích đất tính từ phân nửa (½) đỉnh của cả 6 dãy núi kể trên về phía Bắc.
Các cao địa này là vị trí chiến lược để phòng thủ Việt Nam chống quân Bắc phương. Các dãy này nay đã chuyển cho Trung Cộng.
“Chủ quyền lãnh thổ là vấn đề hết sức thiêng liêng đối với bất kỳ quốc gia, dân tộc nào. Ðối với dân tộc Việt Nam thì chủ quyền lãnh thổ lại càng thiêng liêng cao cả. Dân tộc ta từ nghìn xưa đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Gần tám thập kỷ qua, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Bác Hồ kính yêu, đã đi qua những cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ, chịu đựng những hy sinh, mất mát to lớn để giữ vững chủ quyền lãnh thổ của mảnh đất thân yêu này.
Trong đàm phán với Trung Quốc và các nước láng giềng khác cũng như trong quá trình phân giới cắm mốc (PGCM) trên thực địa, chúng ta đều đã thể hiện hết sức rõ ràng lập trường bất di bất dịch, đó là: chủ quyền lãnh thổ là vấn đề mang tính nguyên tắc, không thể nhân nhượng. Vì vậy, không thể có chuyện “Việt Nam mất đất”, “cắt đất” cho nước này, nước kia như một số mạng nước ngoài đưa tin.
Chỉ có thể giải thích rằng những mạng này hoặc do thiếu thông tin hoặc cố tình làm sai lệch thông tin vì những ý đồ khác nhau.”
.
Trong cuộc phỏng vấn tháng 1/2002 khi trả lời một câu hỏi của phóng viên Thu Uyên rằng ông nghĩ thế nào về các nguồn tin hải ngoại nói trong việc phân định biên giới đi đến Hiệp định ký ngày 30/12/1999 Việt Nam mất 700 km2 ông Lê Công Phụng trả lời:
“Đàm phán lại lần này thì căn cứ để phân định đường biên giới là dựa chủ yếu vào các công ước đã được ký cách đây 100 năm. Và khi chúng ta và Trung Quốc đưa ra bản đồ chủ trương của mình (có nghĩa là theo chúng ta đường biên giới chỗ nào là đúng, theo Trung Quốc đường biên giới chỗ nào là đúng), hai bên chênh nhau 227 km2 tại 164 điểm. Và 227 km2 đó nằm trên quãng 400 cây số. Còn 900 cây số chiều dài còn lại thì hai bên nhất trí với nhau theo phân định của bản đồ Pháp – Thanh.
Trong 227 km2 đó, chúng ta đàm phán với Trung Quốc từ năm 1993, đi đến ký kết ngày 30/12/1999. Chúng ta được khoảng trên dưới 113 km2 và Trung Quốc được trên dưới 114 km2 Như vậy có thể nói, qua cuộc đàm phán thương lượng đi đến ký kết Hiệp định trên bộ, chúng ta và Trung Quốc đã đạt kết quả được công bằng và thỏa đáng. Nói chuyện chúng ta mất 700 km2, theo tôi nghĩ, hoàn toàn không thực tế.”
Ông Vũ Dũng nói không mất gì cả, trong khi ông Lê Công Phụng nói mất 1km2. Vậy sự thật ở đâu? (đây là nói về sự thật do những người có trách nhiệm trong cùng một chính quyền nói ra, chứ chưa nói về sự thật lịch sử).
Ông Vũ Dũng đã trả lời về ải Nam Quan như sau:
“Tại khu vực cửa khẩu Hữu Nghị, theo các văn bản pháp lý lịch sử, đường biên giới luôn nằm phía nam Ải Nam Quan. Trấn Nam Quan do Trung Quốc xây dựng vẫn thuộc Trung Quốc, chứ không phải đường biên giới đi qua Ải Nam Quan như một số người vẫn hiểu.”
Trả lời cùng một câu hỏi của VASC Orient về ranh giới tại ải Nam Quan rằng: “Còn về mục Nam Quan. Đi bộ từ Hữu nghị quan tới cột mốc số 0 đến vài trăm thước. Thực tế sự sai lệch này là như thế nào?” ông thứ trưởng Lê Công Phụng nói rõ hơn:
“Nếu chúng ta bắt đầu tính biên giới từ chân tường hoặc chia đôi cửa mục Nam Quan thì cũng không được. Còn cột mốc số không – nhân dân Lạng Sơn báo cáo với Trung ương, Chính phủ và các nhà đàm phán rằng cột mốc có từ khi những người già còn chưa ra đời. Chúng ta tôn trọng cơ sở pháp lý đã có, tôn trọng thực tiễn, nhất là vì lâu nay quản lý đã như vậy. Cho nên hiện nay chúng ta công nhận mục Nam Quan là của Trung Quốc cách cột mốc số 0 trên 200m. Tính cột mốc số 0 trở về phía Nam là lãnh thổ của Việt Nam. Từ cột mốc số 0 trở về phía Bắc là của Trung Quốc.”
Tam bách niên lai trực đáo câm
Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm…
Việc cũ đời Lý, Trần xa xôi, mờ mịt khó tìm
Suốt ba trăm năm thẳng tới hiện nay
Hai nước chia đều nhau từ mặt chiếc lũy lẻ loi
Một cửa quan oai hùng trấn giữa muôn quả núi…
“Thác Bản Giốc gồm hai phần: phần thác cao hoàn toàn thuộc Việt Nam, không có tranh chấp; phần thác thấp gắn liền với sông Quế Sơn. Theo Công ước Pháp – Thanh, đường biên giới đi giữa sông Quế Sơn đến thác và mốc 53 nằm phía trên thác đánh dấu sự chuyển hướng đường biên giới từ sông lên bờ. Hiện nay ta và Trung Quốc chưa PGCM đoạn biên giới khu vực này nhưng có thể khẳng định phần thác cao hoàn toàn thuộc Việt Nam, phần thác thấp sẽ được phân giới theo luật pháp và tập quán quốc tế về trung tuyến dòng chảy hoặc trung tuyến tàu thuyền đi lại được, hoàn toàn không có chuyện Việt Nam mất thác Bản Giốc như một số người nói. Hàng triệu lượt khách du lịch đến thác Bản Giốc đều biết rất rõ điều này.”
“Về thác Bản Giốc, thì đây là điều rất phức tạp. Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là của Trung Quốc. Còn đối với chúng ta, thác này đã đi vào sử sách, nhất là sách giáo khoa của học sinh, thành di tích, điểm du lịch được nhiều người ưa chuộng.”
“Chính phủ ta đã tỏ thái độ rất rõ ràng về việc thành lập thành phố Tam Sa. Ðây là việc làmkhông phù hợp với thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước, không phù hợp với tinh thần và lời văn của tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Ðông.
Lãnh đạo cấp cao Việt Nam, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã có những biện pháp kịp thời đối với việc làm sai trái này. Chúng ta sẽ tiếp tục giao thiệp trực tiếp, chính thức với phía Trung Quốc về vấn đề này, cố gắng giải quyết vấn đề thông qua đàm phán hữu nghị trên tinh thần hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, có lý, có tình.
Chúng ta có đầy đủ bằng chứng pháp lý và lịch sử để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”
Jan. 4, 2008
“Tại cửa sông Bắc Luân, đường biên giới bắt đầu từ thượng lưu bãi Tục Lãm đến điểm đầu của đường phân định Vịnh Bắc Bộ.”
Ông ta cũng khẳng định rằng, không hề có chuyện nhân nhượng và Việt Nam cắt đất “cho nước này, nước kia”.
Ông Tuấn nói theo các tài liệu mà ông tham khảo bấy lâu nay, kể cả tài liệu chính thức của Pháp và Nhà Thanh, “thác Bản Giốc đều hoàn toàn thuộc về Việt Nam”.
“Có tài liệu còn nói thác Bản Giốc nằm bên trong, cách biên giới tới hai cây số.”
“Tôi rất ngạc nhiên về kết quả liên quan tới ngọn thác này.”
“Dấu tích lịch sử quan trọng của khu vực cửa khẩu Hữu nghị là mốc 19 cũ do Pháp Thanh cắm năm 1894.”
Theo ông, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành cắm mốc 1117 trùng với vị trí mốc 19 cũ, “phù hợp với lịch sử và thực tiễn quản lý”.
Đây là công việc hoàn toàn thuần túy kỹ thuật, nhưng chắc cũng phải mất khoảng một năm nữa.
Nhưng tôi nghĩ mấy hôm nữa là sẽ xong hết vì các đơn vị đều đã được lệnh ra đúng vị trí để triển khai.
Theo đó, phía trên thác Bản Giốc có một cồn đất nhỏ và ranh giới sẽ cắt ngang qua cồn. Việt Nam có 1/4 và Trung Quốc có 3/4 cồn đất đó.
Phía dưới, ở bãi Tục Lãm với diện tích 52 hectares thì Việt Nam có 3/4 và Trung Quốc là 1/4.
Địa hình núi cao, hiểm trở, không có dân, có đường để vận chuyển vật liệu… Rồi khó khăn về bom mìn, vật nổ còn lại từ thời chiến tranh. Trong tám năm phân giới cắm mốc, đã có ba người hy sinh, 35 người bị thương vì bom mìn.
Tại nhiều nơi, dân cư hai bên sống xen kẽ hàng trăm năm nay, sau khi cắm mốc người TQ có thể ở phía VN và ngược lại. Vậy cho nên cần điều chỉnh lại, tất nhiên trên cơ sở cân bằng về diện tích và lợi ích của hai bên.
Tuy nhiên sau này khi đã vào Nghị định thư thì nó sẽ rất rõ ràng, có cả mô tả các điểm trên bản đồ cho dễ hiểu. Xong Nghị định thư, chúng tôi sẽ nộp lưu chiểu cả bản đồ cho Liên Hiệp Quốc.
-----------
Sad VN
Từ xưa đến nay ai cũng biết Thác Bản Giốc thuộc VN, nay TQ chiếm 3/4, VN 1/4 là sao? Ngoài ra dân VN học lịch sử từ xưa đã biết Ải Nam Quan cũng thuộc VN và nay ông Vũ Dũng cũng lại nói Ải này hoàn toàn nằm sâu trong lãnh thổ TQ? Như vậy lịch sử địa lý VN trước đây là sai bét? Việc mất đất qua cuộc chiến tranh biên giới do TQ gây ra năm 1979, những điều người dân VN lo lắng bấy lâu nay, phải chăng là sự thật qua tuyên bố của ông Vũ Dũng? Chuyện cắm mốc đã xong đồng nghĩa với việc hợp thức hóa phần đất đã mất!? Thân phận nước nhược tiểu luôn là thế, biết làm gì hơn?
Phân chia biên giới là việc rất tốt, nếu cả bên TQ cũng không gây khó khăn thì sau đó mọi chuyện sẽ rõ ràng hơn, 2 bên không còn tranh chấp nữa. Nhưng không hiểu còn Trường Sa với Hoàng Sa thì sao ?
Ông Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng có nói: “Việt Nam đã hy sinh hàng triệu người, cũng là để bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước. Không có lý do gì, không ai được phép và không ai có quyền nhân nhượng về đất đai….” và khẳng định: không thể có chuyện “Việt nam mất đất”, “cắt đất” cho nước này, nước kia (né tránh từ Trung Quốc) như một số mạng nước ngoài đưa tin.
Vậy thì Chính phủ VN hãy công khai trung thực trên các phương tiện truyền thông đại chúng bản đồ chi tiết trước và sau khi phân giới cắm mốc Việt-Trung để toàn dân được biết và so sánh Việt nam được gì, mất gì qua sự kiện lịch sử này. Nếu không công khai điều này thì không khéo lại mang tiếng:”Nói! một đàng mà làm một nẻo” đấy!
Việc công bố bản đồ chi tiết là rất cần thiết. Người dân cần biết việc này trước khi Chính phủ và Quốc hội kí kết bất kì văn bản nào liên quan với TQ. Đừng nên để dân chúng vào sự đã rồi, nhất là những thông tin từ các chuyên gia và nhà nghiên cứu cho thấy có những nhân nhượng quá đáng, và nhiều cán bộ bao gồm sử gia nhiều năm hoạt động ở vùng biên giới cho rằng cột mốc lùi về phía VN quá xa.
Ngoài ra những tin đồn hai bữa nay râm ran ở các tỉnh thành rằng TQ cương quyết áp lực chính phủ VN để giải quyết có lợi cho họ và cũng để hợp thức hóa phần đất họ đã chiếm giữ từ chiến tranh Trung-Việt ngày 17/2/1979 sợ phản ứng tiếp theo của người dân VN ở trong cũng như ngoài nước.
Về việc 3 cán bộ PGCM hy sinh do bom mìn TQ cài trên biên giới, cần tổ chức nghi lễ cầu siêu nhà nước trước khi chính thức thực hiện phân chia. Chính họ cần được khắc ghi như những nhân chứng cho thế hệ mai sau biết rằng đừng xâm lấn nhau, hảy để vong linh kẻ chết trấn giữ biên cương cho người hậu thế.
Từ giới điểm số 26, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng Đông Nam đến điểm có độ cao 662, rồi theo đường thẳng hướng Đông khoảng 500m đến một chỏm núi không tên, sau đó theo sống núi, hướng chung là hướng Bắc chuyển Đông - Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 934, 951 đến điểm có độ cao 834, tiếp đó theo khe hướng Đông - Đông Bắc, cắt suối Na Thin, rồi theo sống núi qua điểm có độ cao 824 đến điểm có độ cao 1049, sau đó theo sống núi và khe, hướng Đông Nam, cắt một sống núi nhỏ, rồi xuôi theo khe hướng Đông đến giới điểm số 27. Giới điểm này ở giữa suối Nà Rì, cách điểm có độ cao 772 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,05 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 1334 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,65 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 848 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,10 km về phía Đông Nam.
Từ giới điểm số 27, đường biên giới rời suối, ngược khe lên sống núi, hướng Đông - Đông Bắc đến điểm có độ cao 706, sau đó theo sống núi, hướng Bắc chuyển Đông - Đông Nam, qua các điểm có độ cao 807, 591, 513, 381 đến điểm có độ cao 371, sau đó theo sống núi, hướng Đông đến giữa suối Pai Ngăm (Ping Mèng), rồi ngược suối này về hướng Bắc khoảng 200 m, rời suối theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, qua các điểm có độ cao 591, 722, 818, 706, 890 đến giới điểm số 28. Giới điểm này ở điểm có độ cao 917, cách điểm có độ cao 668 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,55 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 943 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,75 km về phía Nam - Đông Nam, cách điểm có độ cao 955 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,90 km về phía Đông - Đông Bắc.
Từ giới điểm số 28, đường biên giới theo sống núi, hướng chung là hướng Đông, qua các điểm có độ cao 790, 803, 601, 524, 934, chỏm núi không tên ở phía Nam điểm có độ cao 1025 trong lãnh thổ Trung Quốc, các điểm có độ cao 871, 964, chỏm núi không tên phía Nam điểm có độ cao 855 trong lãnh thổ Trung Quốc, các điểm có độ cao 978, 949 đến điểm có độ cao 829, sau đó theo sườn núi, hướng Đông đến giới điểm số 29. Giới điểm này ở điểm có độ cao 890, cách điểm có độ cao 1007 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,50 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1060 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,05 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1047 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,45 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 29, đường biên giới theo sườn núi phía Nam điểm có độ cao 1073 trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng Đông đến điểm có độ cao 1077, rồi theo sống núi, hướng chung là hướng Đông chuyển Đông Nam, qua các điểm có độ cao 1104, 1115, 1073, 942, 832, 1068, 1066, 1066, 1030, 1028, 982, 1021, 826, 911 đến giới điểm số 30. Giới điểm này ở một con đường nhỏ, cách điểm có độ cao 770 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,40 km về phía Tây, cách điểm có độ cao 764 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,75 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 888 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,80 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 30, đường biên giới theo sống núi, hướng chung Đông Bắc, cắt qua một suối không tên đến điểm có độ cao 715, rồi theo mé Nam và mé Đông một con đường của Trung Quốc, hướng Đông chuyển Bắc - Đông Bắc, cắt qua một con đường từ Việt Nam sang Trung Quốc, rồi theo dốc núi mé Tây Nam điểm có độ cao 903 trong lãnh thổ Trung Quốc bắt vào sống núi, hướng Đông Nam đến giới điểm số 31. Giới điểm này ở điểm có độ cao 670, cách điểm có độ cao 770 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,90 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 823 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,60 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 976 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,80 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 31, đường biên giới đi theo sống núi, hướng chung Đông Nam qua điểm có độ cao 955 đến điểm có độ cao 710, sau đó theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, qua điểm có độ cao 940 đến điểm có độ cao 780, rồi theo sống núi, hướng Đông Bắc, qua điểm có độ cao 780 đến điểm có độ cao 625, sau đó tiếp tục theo sống núi, hướng Đông đến giới điểm số 32. Giới điểm này ở giữa sông Bắc Vọng (Ba Bang), cách điểm có độ cao 792 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,35 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 808 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,85 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 822 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,05 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 32, đường biên giới rời sông bắt vào sống núi, hướng chung là hướng Đông chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 890, 667, 906, 691, 854, 884, 701, 884, 783, 619, 856, 591, 907, 651, 580, 785, 925, 950 đến giới điểm số 33. Giới điểm này ở giữa sông Quây Sơn (Nan Tan), cách điểm có độ cao 922 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,65 km về phía Bắc - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 685 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,10 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 965 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,30 km về phía Đông - Đông Nam.
Từ giới điểm số 33, đường biên giới rời sông bắt vào sống núi, hướng Đông Bắc, qua điểm có độ cao 612 đến điểm có độ cao 624, sau đó tiếp tục theo sống núi, hướng chung Đông Nam, qua các điểm có độ cao 521, 725, 845, 825, 755, 726, 516, 735, 902, 764, 573, 693, 627 đến giới điểm số 34. Giới điểm này ở điểm có độ cao 505, cách điểm có độ cao 791 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,60 km về phía Bắc - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 632 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,80 km về phía Đông - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 655 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,65 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 34, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua điểm có độ cao 878 đến điểm có độ cao 850, sau đó theo sống núi hướng chung là Đông Nam chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 837, 758, 712, 492, 695, 449 đến điểm có độ cao 624, rồi tiếp tục theo sống núi, hướng chung Đông - Đông Nam chuyển Tây Nam, qua các điểm có độ cao 731, 737, 805, 866, 752, 605, 815 đến giới điểm số 35. Giới điểm này ở cách điểm có độ cao 709 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,90 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 782 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,10 km về phía Nam, cách điểm có độ cao 794 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,45 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 35, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến giữa sông Quây Sơn, sau đó xuôi sông này, hướng chung Đông Nam đến giới điểm số 36. Giới điểm này ở giữa sông Quây Sơn, cách điểm có độ cao 660 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,20 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 589 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,05 km về phía Tây, cách điểm có độ cao 613 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,50 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 36, đường biên giới rời sông theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua các điểm có độ cao 597, 653, 560, 367, 629, 717, 685, 746 đến giới điểm số 37. Giới điểm này ở điểm có độ cao 620, cách điểm có độ cao 665 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,80 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 640 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,50 km về phía Tây - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 592 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,90 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 37, đường biên giới theo sống núi, hướng Đông Nam chuyển Tây - Tây Nam, qua điểm có độ cao 336 đến một chỏm núi không tên, sau đó theo sống núi, hướng Đông Nam đến một yên ngựa, rồi theo khe, hướng Tây Nam đến đầu một con suối không tên, sau đó xuôi theo suối đó, hướng Tây Nam, rồi rời suối, theo hướng Tây Nam qua điểm có độ cao 348 đến một yên ngựa, tiếp đó theo hướng Tây qua một lũng nhỏ đến giới điểm số 88. Giới điểm này cách điểm có độ cao 723 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,95 km về phía Đông - Đông Nam, cách điểm có độ cao 685 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,35 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 630 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,00 km về phía Tây. Từ giới điểm số 38, đường biên giới theo sống núi, hướng chung Đông Nam chuyển Tây Nam, qua các điểm có độ cao 635, 656, cắt suối Luộc, qua điểm có độ cao 627 đến chỏm núi không tên ở phía Tây Bắc điểm có độ cao 723 trong lãnh thổ Trung Quốc, sau đó hướng Nam - Đông Nam, qua điểm có độ cao 412 bắt vào sống núi, hướng chung là hướng Nam, qua các điểm có độ cao 727, 745, 664, 487, 615, 473, 586 đến giới điểm số 39. Giới điểm này ở giữa đường mòn, cách điểm có độ cao 682 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,20 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 660 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,10 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 612 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,30 km về phía Tây - Tây Bắc.
Từ giới điểm số 39, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua điểm có độ cao 303 đến điểm có độ cao 558, sau đó theo sống núi, hướng chung là Tây Nam, qua các điểm có độ cao 591, 521 đến giữa một con suối không tên, rồi xuôi theo suối này, hướng Tây Nam đến hợp lưu của nó với một con suối khác, tiếp đó rời suối bắt vào sống núi, hướng chung Tây Bắc chuyển Tây Nam, qua các điểm có độ cao 602, 657, 698, 565 đến giới điểm số 40. Giới điểm này ở giữa sông Bắc Vọng (Ba Wang), cách điểm có độ cao 689 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,05 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 529 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,06 km về phía Đông - Đông Nam, cách điểm có độ cao 512 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,95 km về phía Tây Bắc.
Từ giới điểm số 40, đường biên giới xuôi sông Bắc Vọng (Ba Wang), hướng chung là hướng Nam đến hợp lưu của nó với sông Bằng Giang, sau đó ngược sông Bằng Giang, hướng chung Tây Bắc đến giới điểm số 41. Giới điểm này ở giữa sông Bằng Giang, cách điểm có độ cao 345 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,45 km về phía Đông - Đông Nam, cách điểm có độ cao 202 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,05 km về phía Nam - Tây Nam, cách điểm có độ cao 469 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,35 km về phía Bắc - Đông Bắc.
Từ giới điểm số 41, đường biên giới rời sông, hướng Tây đến điểm có độ cao 153, sau đó theo sống núi, hướng Tây Nam chuyển Nam, qua các điểm có độ cao 332, 463, 404, 544, 303 đến điểm có độ cao 501, rồi tiếp tục theo sống núi, hướng Đông chuyển Nam, qua các điểm có độ cao 255, 259, đến điểm có độ cao 472, sau đó tiếp tục theo sống núi, hướng Đông Nam chuyển Tây Nam, qua các điểm có độ cao 600, 552, 550, 530, 323, 514 đến một chỏm núi không tên ở phía Đông Nam điểm có độ cao 597 trong lãnh thổ Việt Nam, lại theo sống núi hướng Tây Nam, cắt khe, rồi theo sườn núi mé Đông Nam điểm có độ cao 658 trong lãnh thổ Việt Nam, hướng chung là hướng Tây đến điểm có độ cao 628, từ đây đường biên giới theo sống núi hướng Nam, qua các điểm có độ cao 613, 559 đến một điểm ở sống núi, sau đó theo đường thẳng, hướng Đông Nam đến giới điểm số 42. Giới điểm này ở điểm có độ cao 417, cách điểm có độ cao 586 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,70 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 494 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,10 km về phía Bắc - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 556 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,85 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 42, đường biên giới theo hướng Đông Bắc đến một chỏm núi không tên, sau đó theo đường thẳng hướng Đông đến một chỏm núi không tên khác, từ đó đường biên giới theo sống núi, hướng chung là hướng Đông, qua các điểm có độ cao 567, 506, 517, 534, 563 đến điểm có độ cao 542, rồi theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến điểm có độ cao 570, sau đó lại theo sống núi, hướng Đông Nam chuyển Nam, qua điểm có độ cao 704 đến giới điểm số 43. Giới điểm này ở giữa một con suối không tên, cách điểm có độ cao 565 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,80 km về phía Đông - Đông Nam, cách điểm có độ cao 583 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,10 km về phía Nam, cách điểm có độ cao 561 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,87 km về phía Tây - Tây Nam.
Từ giới điểm số 43, đường biên giới xuôi theo suối không tên về hướng Đông Nam khoảng 500 mét, sau đó rời suối này theo hướng Đông, cắt qua một sống núi nhỏ đến khe, chuyển hướng Nam - Đông Nam xuống giữa con suối nói trên, tiếp đó xuôi theo suối này, hướng Nam, đến hợp lưu của suối này với một nhánh suối khác, sau đó theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua các điểm có độ cao 632, 637 đến giới điểm số 44.
Giới điểm này ở giữa đường phòng hỏa, cách điểm có độ cao 666 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,50 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 943 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,56 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 710 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,30 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 44, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước (trong đó đoạn nào theo đường phòng hỏa thì theo trung tuyến của đường phòng hỏa) qua các điểm có độ cao 637, 383 đến điểm có độ cao 324, sau đó theo sống núi nhỏ, hướng Nam - Tây Nam đến giữa nhánh phía Tây suôn Khuổi Lạn, sau đó xuôi theo suối này, hướng Nam đến giới điểm số 45. Giới điểm này ở giữa suối Khuổi Lạn, cách điểm có độ cao 293 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,90 km về phía Đông - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 323 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,42 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 322 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,60 km về phía Tây - Tây Nam.
Từ giới điểm số 45, đường biên giới rời suối bắt vào sống núi nhỏ, hướng Đông - Đông Nam đến điểm có độ cao 245, sau đó theo đường thẳng, hướng Nam, đến giữa sông Kỳ Cùng (Bình Nhi), tiếp đó ngược sông Kỳ Cùng (Bình Nhi), hướng chung Tây Nam đến giới điểm số 46. Giới điểm này ở giữa sông Kỳ Cùng bình Nhi), cách điểm có độ cao 185 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,55 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 293 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,22 km về phía Nam - Tây Nam, cách điểm có độ cao 270 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,45 km về phía Tây - Tây Bắc.
Từ giới điểm số 46, đường biên giới rời sông, hướng Nam, bắt vào sống núi đến điểm có độ cao 269, sau đó theo sống núi, hướng Tây Nam chuyển Đông Nam, tiếp đó theo hướng Nam, qua các điểm có độ cao 303, 304, 321, 284 đến giới điểm số 47. Giới điểm này ở ngã ba suối, cách điểm có độ cao 329 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,85 km về phía Nam - Đông Nam, cách điểm có độ cao 313 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,65 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 251 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,20 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 47, đường biên giới rời suôn bắt vào sống núi nhỏ, hướng Đông Nam, qua mé Tây Nam điểm có độ cao 255 trong lãnh thổ Trung Quốc, bắt vào sống núi, rồi theo sống núi, hướng chung là hướng Nam qua các điểm có độ cao 281, 357 đến điểm có độ cao 344, sau khi cắt một suối không tên, ngược dốc bắt vào sống núi, rồi theo sống núi qua điểm có độ cao 428 đến điểm có độ cao 409, sau đó theo đường thẳng, hướng Nam đến điểm có độ cao 613, rồi theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến giới điểm số 48. Giới điểm này ở điểm có độ cao 718, cách điểm có độ cao 658 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,44 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 832 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,50 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 836 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,65 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 48, đường biên giới theo sống núi, hướng Đông Nam đến điểm có độ cao 852, sau đó theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến điểm có độ cao 695, rồi lại theo sống núi, hướng Tây Nam chuyển Nam, qua các điểm có độ cao 702, 411, cắt một con đường, qua điểm có độ cao 581 đến giới điểm số 49. Giới điểm này ở điểm có độ cao 549, cách điểm có độ cao 436 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,10 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 511 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,45 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 557 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,40 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 49, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng chung là Nam - Đông Nam rồi chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 359, 364, 406 đến giới điểm số 50. Giới điểm này ở điểm có độ cao 610, cách điểm có độ cao 618 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,30 km về phía Tây - Tây Nam, cách điểm có độ cao 395 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,90 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 730 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,80 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 50, đường biên giới theo sống núi, hướng Bắc - Đông Bắc đến một chỏm núi không tên ở phía Tây điểm có độ cao 634 trong lãnh thổ Việt Nam, sau đó theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua điểm có độ cao 758 đến điểm có độ cao 742, rồi theo sống núi, hướng chung Đông - Đông Nam qua các điểm có độ cao 540, 497, 381 đến giới điểm số 51. Giới điểm này ở giữa suối Khuổi Đẩy, cách điểm có độ cao 388 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,60 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 411 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,60 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 386 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,75 km về phía Nam - Đông Nam.
Từ giới điểm số 51, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua các điểm có độ cao 451, 427 đến điểm có độ cao 475, sau đó theo sống núi, hướng chung là hướng Đông, qua các điểm có độ cao 499, 506, 511, 475, 477, 483, 486 đến điểm có độ cao 438, rồi theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến giới điểm số 52. Giới điểm này ở điểm có độ cao 392, cách điểm có độ cao 389 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,10 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 356 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,65 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 408 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,70 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 52, đường biên giới theo sống núi, hướng chung là hướng Đông chuyển Đông Nam rồi Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 396, 402, 351, 361, 494, 476, 387, 432, 444, 389, 488, 480, 347 đến giới điểm số 53. Giới điểm này ở điểm có độ cao 248, cách điểm có độ cao 813 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,00 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 331 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,75 km về phía Nam - Tây Nam, cách điểm có độ cao 328 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,05 km về phía Đông - Đông Nam.
Từ giới điểm số 53, đường biên giới theo sống núi, hướng chung Đông Nam chuyển Tây Nam, qua các điểm có độ cao 401, 398, 409, 498, 509, 425, 456, 404, 475, 502, 721, 704, 939, 1282 đến điểm có độ cao 1358, sau đó tiếp tục theo sống núi, hướng Nam chuyển Đông Nam, qua các điểm có độ cao 851, 542 đến giới điểm số 54. Giới điểm này cách điểm có độ cao 632 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,70 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 473 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,40 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 545 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,50 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 54, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng chung Đông - Đông Nam, qua các điểm có độ cao 370, 344, 366, 337 đến điểm có độ cao 435, sau đó theo sống núi, hướng chung Đông Nam, qua các điểm có độ cao 401, 440, 351, 438, 470, 612, 640, 651, 534, 525 đến giới điểm số 55. Giới điểm này ở điểm có độ cao 523, cách điểm có độ cao 551 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,80 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 480 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,95 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 528 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,14 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 55, đường biên giới theo sống núi, hướng Đông - Đông Nam, qua các điểm có độ cao 506, 577, 670 đến điểm có độ cao 788, từ đó theo đường phân thủy giữa các nhánh sông trong lãnh thổ Việt Nam và các nhánh sông trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Bắc chuyển Đông Nam, qua các điểm có độ cao 870, 825, 894, 855, 736, 706, 1029 đến giới điểm số 56. Giới điểm này ở điểm có độ cao 705, cách điểm có độ cao 863 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,80 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 861 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,00 km về phía Bắc - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 913 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,20 km về phía Tây - Tây Nam.
Từ giới điểm số 56, đường biên giới theo đường phân thủy giữa các nhánh sông trong lãnh thổ Việt Nam và các nhánh sông trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 652, 975, 875, 835, 1150, 1082 đến giới điểm số 57. Giới điểm này ở điểm có độ cao 882, cách điểm có độ cao 638 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,55 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1265 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,95 km về phía Nam - Tây Nam, cách điểm có độ cao 1025 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,20 km về phía Tây - Tây Nam.
Từ giới điểm số 57, đường biên giới theo sống núi, hướng Tây Nam đến điểm tiếp nối với một khe, rồi theo khe, hướng Nam - Đông Nam, đến giữa suối Tài Vằn, sau đó xuôi suối này và hạ lưu của nó là suối Nà Sa đến giới điểm số 58. Giới điểm này ở hợp lưu suối Nà Sa với một nhánh sông nằm ở phía Đông, cách điểm có độ cao 423 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,95 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 447 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,75 km về phía Nam, cách điểm có độ cao 320 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,45 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 58, đường biên giới ngược nhánh sông phía Đông nói trên đến ngã ba sông Đồng Mô, rồi ngược sông Đồng Mô, Bỉ Lao, Cao Lạn đến giới điểm số 59. Giới điểm này ở hợp lưu hai con suối Cao Lạn và Phai Lầu, cách điểm có độ cao 1052 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,10 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 600 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,57 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 602 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,00 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 59, đường biên giới ngược suối Cao Lạn hướng Đông Nam, sau đó rời suối đi theo đường thẳng hướng Đông - Đông Nam đến một chỏm núi không tên phía Bắc điểm có độ cao 960 trong lãnh thổ Việt Nam, rồi theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến giới điểm số 60. Giới điểm này ở điểm có độ cao 1100, cách điểm có độ cao 1156 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,10 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 683 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,65 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 1094 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,95 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 60, đường biên giới theo sống núi nhỏ hướng Đông Bắc, xuống khe, rồi theo khe hướng chung là hướng Đông Bắc chuyển Đông - Đông Nam, đến một nhánh thượng lưu sông Ka Long, sau đó xuôi theo sông này, hướng Đông - Đông Bắc, đến giới điểm số 61. Giới điểm này ở hợp lưu sông Ka Long với một sông khác (Bắc Luân), cách điểm có độ cao 561 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,20 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 117 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,95 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 224 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,60 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 61, đường biên giới xuôi theo trung tuyến luồng chính tầu thuyền đi lại của sông Ka Long, Bắc Luân, đến điểm cuối của nó, bắt vào giới điểm số 62. Giới điểm này là điểm tiếp nối đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
Các cồn, bãi nằm hai bên đường đỏ của các đoạn biên giới theo sông suối trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đã được quy thuộc theo đường đỏ.
Đường biên giới trên đất liền giữa hai nước mô tả ở điều này được vẽ bằng đường đỏ trên bản đồ tỷ lệ 1/50.000 do hai bên cùng xác định, độ dài và diện tích dùng trong mô tả đường biên giới được đo từ bản đồ này. Bộ bản đồ nói trên đính kèm Hiệp ước này là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước.
Điều III. Hai Bên ký kết đồng ý vị trí chính xác điểm gặp nhau của đường biên giới giữa ba nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào sẽ do ba nước thỏa thuận xác định.
Điều IV. Mặt thẳng đứng đi theo đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc nói tại Điều II của Hiệp ước này phân định vùng trời và lòng đất giữa hai nước.
Điều V. Hai Bên ký kết đồng ý, trừ khi đã được Hiệp ước này quy định rõ ràng, đường biên giới Việt - Trung nói tại Điều II, đối với những đoạn lấy sông suối làm biên giới thì ở những đoạn sông suối tầu thuyền không đi lại được, đường biên giới đi theo trung tuyến của dòng chảy hoặc của dòng chảy chính; ở những đoạn sông suối tầu thuyền đi lại được, đường biên giới đi theo trung tuyến của luồng chính tầu thuyền đi lại. Vị trí chính xác trung tuyến của dòng chảy, của dòng chảy chính hoặc của trung tuyến luồng chính tầu thuyền đi lại và sự quy thuộc của các cồn, bãi trên sông suối biên giới sẽ được hai Bên ký kết xác định cụ thể khi phân giới, cắm mốc.
Tiêu chuẩn chính để xác định dòng chảy chính là lưu lượng dòng chảy ở mực nước trung bình. Tiêu chuẩn chính để xác định luồng chính tầu thuyền đi lại là độ sâu của luồng tầu thuyền đi lại, kết hợp với chiều rộng và bán kính độ cong của luồng tầu thuyền đi lại để xem xét tổng hợp. Trung tuyến của luồng chính tầu thuyền đi lại là trung tuyến mặt nước giữa hai đường đẳng sâu tương ứng đánh dấu luồng chính tầu thuyền đi lại.
Bất kỳ sự thay đổi nào có thể xảy ra đối với sông suối biên giới đều không làm thay đổi hướng đi của đường biên giới, không ảnh hưởng đến vị trí của đường biên giới Việt - Trung đã được xác định trên thực địa cũng như sự quy thuộc của các cồn, bãi, trừ khi hai Bên ký kết có thỏa thuận khác. Những cồn, bãi mới xuất hiện trên sông suối biên giới sau khi đường biên giới đã được xác định trên thực địa sẽ được phân định theo đường biên giới đã được xác định trên thực địa. Nếu các cồn, bãi mới xuất hiện nằm trên đường biên giới đã được xác định trên thực địa thì hai Bên ký kết sẽ bàn bạc xác định sự quy thuộc trên cơ sở công bằng, hợp lý.
Điều VI.
1. Hai Bên ký kết quyết định thành lập ủy ban Liên hợp phân giới và cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc dưới đây gọi là ủy ban Liên hợp phân giới, cắm mốc) và giao cho ủy ban này nhiệm vụ xác định trên thực địa đường biên giới Việt - Trung như đã nêu trong Điều II của Hiệp ước này và tiến hành công việc phân giới, cắm mốc, cụ thể là xác định vị trí chính xác của đường sống núi, đường phân thủy, trung tuyến của dòng chảy hoặc dòng chảy chính, trung tuyến luồng chính tầu thuyền đi lại và các đoạn đường biên giới khác, xác định rõ sự quy thuộc của các cồn, bãi trên sông suối biên giới, cùng nhau cắm mốc giới, soạn thảo Nghị định thư về biên giới trên đất liền giữa hai nước, gồm cả hồ sơ chi tiết về vị trí các mốc giới, vẽ bản đồ chi tiết đính kèm Nghị định thư thể hiện hướng đi của đường biên giới và vị trí các mốc giới trên toàn tuyến, cũng như giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan đến việc hoàn thành các nhiệm vụ kể trên.
2. Ngay sau khi có hiệu lực, Nghị định thư về biên giới trên đất liền giữa hai nước nói tại khoản 1 Điều này trở thành một bộ phận của Hiệp ước này và bản đồ chi tiết đính kèm Nghị định thư này thay thế bản đồ đính kèm Hiệp ước này.
3. ủy ban Liên hợp phân giới, cắm mốc bắt đầu công việc ngay sau khi Hiệp ước này có hiệu lực và chấm dứt hoạt động sau khi Nghị định thư và bản đồ chi tiết đính kèm về đường biên giới trên đất liền giữa hai nước được ký kết.
Điều VII. Sau khi Nghị định thư về biên giới trên đất liền giữa hai nước và bản đồ chi tiết đính kèm có hiệu lực, hai Bên ký kết sẽ ký kết Hiệp ước hoặc Hiệp định về quy chế quản lý biên giới giữa hai nước để thay thế Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ký ngày 07 tháng 11 năm 1991.
Điều VIII. Hiệp ước này được hai Bên ký kết phê chuẩn và có hiệu lực kể từ ngày trao đổi các văn kiện phê chuẩn. Các văn kiện phê chuẩn sớm được trao đổi tại Bắc Kinh.
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa
Theo đề nghị của Chủ tịch nước;
Sau khi xem xét báo cáo của Chính phủ, báo cáo của ủy ban Đối ngoại của Quốc hội và ý kiến của các đại biểu Quốc hội về việc phê chuẩn Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
1. Phê chuẩn Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định quyết tâm cùng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa xây dựng đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc thành đường biên giới hòa bình, ổn định và bền vững mãi mãi, góp phần giữ gìn và phát triển mối quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống giữa hai nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình.
3. Giao Chính phủ chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền triển khai sớm các việc làm cần thiết để ký kết Nghị định thư phân giới, cắm mốc và xác định bản đồ chi tiết; bố trí ngân sách thực hiện Hiệp ước; sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành liên quan tới quản lý đường biên giới; địa giới hành chính, sớm ổn định đời sống của nhân dân ở khu vực biên giới; cùng các cơ quan có thẩm quyền liên quan của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nghiêm chỉnh thực hiện Hiệp ước và xử lý đúng đắn, kịp thời những vấn đề phát sinh.
Chính phủ tiến hành thủ tục đối ngoại về phê chuẩn Hiệp ước và thông báo, hướng dẫn các cơ quan hữu quan thi hành Hiệp ước này.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000.
NÔNG ĐứC MạNH
Nhằm giữ gìn và phát triển mối quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống giữa hai nước và nhân dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc;
Với lòng mong muốn xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định và bền vững mãi mãi giữa hai nước;
Trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình;
Trên tinh thần thông cảm, nhân nhượng lẫn nhau và hiệp thương hữu nghị;
Đã quyết định ký kết Hiệp ước này và thỏa thuận các điều khoản sau:
Điều I. Hai Bên ký kết lấy các Công ước lịch sử về biên giới hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc làm cơ sở, căn cứ vào các nguyên tắc luật pháp quốc tế được công nhận cũng như các thỏa thuận đạt được trong quá trình đàm phán về vấn đề biên giới Việt - Trung, đã giải quyết một cách công bằng, hợp lý vấn đề biên giới và xác định lại đường biên giới trên đất liền giữa hai nước.
Điều II. Hai Bên ký kết đồng ý hướng đi của đường biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được xác định từ Tây sang Đông như sau:
Giới điểm số 1 ở điểm có độ cao 1875 của núi Khoan La San (Thập Tầng Đại Sơn), điểm này cách điểm có độ cao 1439 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,30 km về phía Tây - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1691 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,70 km về phía Tây - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1208 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,00 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 1, đường biên giới theo đường phân thủy giữa các nhánh thượng lưu sông Nậm Mo Phí và sông Nậm Sa Ho đổ vào lãnh thổ Việt Nam và các nhánh thượng lưu sông Chỉnh Khang đổ vào lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Bắc - Đông Bắc chuyển Đông, qua các điểm có độ cao 1089, 1275, 1486 đến điểm có độ cao 1615, sau đó tiếp tục theo đường phân thủy kể trên, hướng chung là hướng Bắc chuyển Đông Bắc, qua điểm có độ cao 1221 đến điểm có độ cao 1264, tiếp đó theo sống núi, hướng Đông Nam đến điểm có độ cao 1248, rồi theo sống núi nhỏ, hướng Đông Bắc đến giới điểm số 2. Giới điểm này ở giữa sông Nậm Nạp (Tháp Nọa), cách điểm có độ cao 1369 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,70 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 1367 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,87 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1256 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,80 km về phía Đông - Đông Nam.
Từ giới điểm số 2, đường biên giới xuôi theo sông Nậm Nạp (Tháp Nọa), hướng Bắc chuyển Đông Bắc đến hợp lưu sông này với sông Tả Ló Phi Ma (Nam Mã), sau đó tiếp tục xuôi theo sông, hướng Bắc đến hợp lưu của nó với sông Đà (Lý Tiên), rồi xuôi sông Đà (Lý Tiên), hướng Đông đến hợp lưu sông này với sông Nậm Là (Tiểu Hắc), tiếp đó ngược sông Nậm Là (Tiểu Hắc) đến giới điểm số 3. Giới điểm này ở hợp lưu sông Nậm Là (Tiểu Hắc) với suối Nậm Na Pi, cách điểm có độ cao 978 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,87 km về phía Tây - Tây Nam, cách điểm có độ cao 620 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,50 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1387 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 4,40 km về phía Đông - Đông Bắc.
Từ giới điểm số 3, đường biên giới rời sông bắt vào sống núi, hướng Tây Bắc đến điểm có độ cao 1933, sau đó theo đường phân thủy giữa các nhánh thượng lưu các suối Là Pơ, Là Si, á Hu, Nậm Sau, Nậm Khô Ma, Nậm Hà Xi, Nậm Hà Nê, Nậm Xí Lùng, Nậm Hạ, Nậm Nghe, Nậm Dền Tháng, Nậm Pảng đổ vào lãnh thổ Việt Nam và các nhánh thượng lưu các sông Zhe Dong, Ha Luo Luo Ba, Da Tou Luo Ba, Mo Wu Luo Ba, Na Bang, Ge Jie, Da Luo, Nan Bu, Giao Beng Bang, Giao Cai Ping, Nan Nan, Jin Thui đổ vào lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Bắc chuyển Đông Nam rồi chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1690, 1975, 1902, 2121, 2254, 2316, 1831, 3074, 2635, 2199, 2133, 2002, 1800 đến điểm có độ cao 1519, sau đó theo sống núi, hướng chung là hướng Đông đến chỏm núi không tên, rồi theo sống núi nhỏ, hướng Đông đến giới điểm số 4. Giới điểm này ở giữa suối Nậm Lé (Cách Giới), cách điểm có độ cao 1451 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,05 km về phía Bắc - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 845 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,90 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 1318 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,62 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 4, đường biên giới xuôi theo suôn Nậm Lé (Cách Giới), hướng chung Đông Bắc chuyển Tây Bắc đến hợp lưu suối này với sông Nậm Na, sau đó xuôi sông Nậm Na, hướng Đông Nam chuyển Đông đến hợp lưu sông này với sông Nậm Cúm (Đằng Điều), rồi ngược sông Nậm Cúm (Đằng Điều), hướng chung Đông Bắc đến đầu nguồn suối Phin Ho (Đằng Điều), rồi theo một khe nhỏ, hướng chung Đông - Đông Bắc đến giới điểm số 5. Giới điểm này ở điểm gặp nhau giữa khe kể trên với sống núi, cách điểm có độ cao 2283 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,62 km về phía Đông - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 2392 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,45 km về phía Nam - Đông Nam, cách điểm có độ cao 2361 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,50 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 5, đường biên giới theo sống núi, hướng Nam đến điểm có độ cao 2413, sau đó theo đường phân thủy giữa các suối Tả Pao Hồ, Thèn Thẻo Hồ, Oanh Hồ, Nậm Nùng, Nậm Lon trong lãnh thổ Việt Nam và các sông San Cha, Tai Zang Zhai, Man Jiang, Wu Tai, Shi Dong, Ping, Zhong Liang và Cha trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Nam, qua các điểm có độ cao 2468, 3013, 2539, 2790 đến giới điểm số 6. Giới điểm này ở điểm có độ cao 2836, cách điểm có độ cao 2381 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,40 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 2531 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,00 km về phía Đông - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 2510 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 3,05 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 6, đường biên giới theo sống núi, hướng Tây Nam đến một điểm gần yên ngựa phía Đông Bắc điểm có độ cao 2546 trong lãnh thổ Việt Nam, sau đó theo khe, hướng Đông Nam đến đầu nguồn suối Lũng Pô (Hồng Nham), rồi xuôi theo suối Lũng Pô (Hồng Nham) và hạ lưu của nó, hướng chung Đông Bắc đến hợp lưu suôn này với sông Hồng, từ đó đường biên giới xuôi sông Hồng, hướng Đông Nam đến hợp lưu sông Hồng với sông Nậm Thi (Nam Khê), tiếp đó ngược sông Nậm Thi (Nam Khê), hướng chung Đông Bắc đến hợp lưu sông Nậm Thi (Nam Khê) với sông Bá Kết (Bá Cát), rồi ngược sông Bá Kết (Bát Tự), hướng chung là hướng Bắc đến hợp lưu sông này với một nhánh suối không tên, sau đó ngược nhánh suối không tên đó, hướng Bắc đến giới điểm số 7. Giới điểm này ở giữa nhánh suối không tên nói trên, cách điểm có độ cao 614 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,00 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 595 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,20 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 463 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,65 km về phía Đông.
Từ giới điểm số 7, đường biên giới rời suối, hướng Đông Bắc, đến điểm có độ cao 143, sau đó hướng Đông Bắc, cắt qua một khe rồi bắt vào sống núi, hướng Bắc, qua các điểm có độ cao 604, 710, 573, 620, 833, 939, 1201 đến điểm có độ cao 918, rồi theo đường phân thủy giữa các nhánh sông trong lãnh thổ Việt Nam và các nhánh sông trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1158, 1077, 997, 1407, 1399, 1370, 1344, 1281, 1371, 1423, 1599, 1528, 1552, 1372, 1523, 1303 đến điểm có độ cao 984, sau đó theo sống núi nhỏ, hướng chung là hướng Nam đến giới điểm số 8. Giới điểm này ở hợp lưu sông Xanh (Qua Sách) với một nhánh phía Tây của nó, cách điểm có độ cao 1521 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,85 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 1346 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 3,82 km về phía Nam - Tây Nam, cách điểm có độ cao 1596 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,27 km về phía Tây - Tây Bắc.
Từ giới điểm số 8, đường biên giới xuôi sông Xanh (Qua Sách), hướng chung là hướng Nam đến hợp lưu sông này với sông Chảy, rồi ngược sông Chảy, hướng chung Đông Nam, đến giới điểm số 9. Giới điểm này ở hợp lưu sông Chảy với sông Xiao Bai, cách điểm có độ cao 1424 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,95 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 1031 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,00 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1076 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,40 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 9, đường biên giới rời sông, bắt vào sống núi, rồi theo sống núi, hướng chung Đông Nam, qua điểm có độ cao 741 đến điểm có độ cao 1326, sau đó theo đường phân thủy giữa các nhánh của sông Chảy đổ vào lãnh thổ Việt Nam và các nhánh của sông Xiao Bai đổ vào lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1681, 1541, 1716, 2002, 1964, đỉnh núi không tên (Đại Nham Động) đến điểm có độ cao 1804, từ đó, theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến điểm có độ cao 1623, sau đó theo đường phân thủy giữa suối Nàn Xỉn trong lãnh thổ Việt Nam và sông Xiao Bai trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng Đông Bắc, qua điểm có độ cao 1638 đến điểm có độ cao 1661, rồi theo khe, hướng Đông Bắc xuống giữa suối Hồ Pả, tiếp đó xuôi suối này đến hợp lưu suối này với một nhánh khác của nó, rồi rời suối bắt vào sống núi, rồi theo sống núi hướng Tây - Tây Bắc, qua điểm có độ cao 1259 đến giới điểm số 10. Giới điểm này ở một sống núi, cách điểm có độ cao 1461 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,25 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1692 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,90 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 1393 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,10 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 10, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến điểm có độ cao 948, sau đó theo sống núi, hướng Đông Bắc chuyển Đông, qua điểm có độ cao 1060 đến giới điểm số 11. Giới điểm này ở hợp lưu suối Đỏ (Nam Bắc) với một nhánh suối phía Tây Nam của nó (Qua Giai), cách điểm có độ cao 841 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,70 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 982 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,50 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 906 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,15 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 11, đường biên giới xuôi suối Đỏ (Nam Bắc) đến hợp lưu suối này với suối Nậm Cư (Nam Giang) , sau đó ngược suối Nậm Cư (Nam Giang) đến giới điểm số 12. Giới điểm này ở hợp lưu suối Nậm Cư (Nam Giang) với một nhánh phía Tây Bắc của nó, cách điểm có độ cao 1151 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,80 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 986 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,40 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 858 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,80 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 12, đường biên giới rời suối, bắt vào sống núi, rồi theo sống núi, hướng chung Đông Nam, qua điểm có độ cao 1071 đến điểm có độ cao 1732, sau đó theo đường phân thủy giữa các nhánh sông trong lãnh thổ Việt Nam và các nhánh sông trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung là hướng Đông chuyển Bắc rồi Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1729, 2071, 1655, 1705, 1423 đến giới điểm số 13. Giới điểm này ở một chỏm núi không tên, cách điểm có độ cao 993 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,55 km về phía Tây - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1044 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,15 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1060 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,70 km về phía Đông Nam.
Từ giới điểm số 13, đường biên giới tiếp tục theo đường phân thủy nói trên, hướng Đông đến điểm cách điểm có độ cao 1422 khoảng 70 m về phía Tây Nam, sau đó theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đi đến một điểm nằm trên đường phân thủy và cách điểm có độ cao 1422 khoảng 90 m về phía Bắc - Đông Bắc khu vực có diện tích 7700 m2 giữa đường đỏ nêu trên và đường phân thủy thuộc Trung Quốc), từ đây đường biên giới tiếp tục theo đường phân thủy nói trên, hướng chung là hướng Đông, qua các điểm có độ cao 1397, 1219, 657, 663 đến một chỏm núi không tên phía Đông Nam điểm có độ cao này, sau đó theo khe, hướng Bắc đến suối Nà La, rồi xuôi theo suối này hướng Đông Bắc đến giới điểm số 14. Giới điểm này ở hợp lưu suối Nà La với sông Lô (Pan Long), cách điểm có độ cao 922 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,20 km về phía Tây - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 183 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,50 km về phía Bắc - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 187 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,65 km về phía Đông.
Từ giới điểm số 14, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước qua điểm có độ cao 428 đến yên ngựa giữa điểm có độ cao 1169 trong lãnh thổ Việt Nam và điểm có độ cao 1175 trong lãnh thổ Trung Quốc, sau đó theo sống núi, hướng chung là hướng Bắc chuyển Tây Bắc, qua các điểm có độ cao 1095, 1115, 1022, 1019, 1094, 1182, 1192, 1307, 1305, 1379 đến điểm có độ cao 1397, rồi tiếp tục theo sống núi, hướng chung là hướng Bắc, qua các điểm có độ cao 1497, 1806, 1825, 1952, 1967, 2122, 2038 đến giới điểm số 15. Giới điểm này ở một chỏm núi không tên, cách điểm có độ cao 1558 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,90 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 2209 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,55 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 2289 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,70 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 15, đường biên giới theo sống núi, hướng chung là hướng Đông, qua điểm có độ cao 2076, sau khi cắt qua một con suối đến một chỏm núi không tên, sau đó theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, qua các điểm có độ cao 1887, 1672 đến điểm có độ cao 1450, rồi theo sống núi, hướng chung là hướng Nam chuyển Đông rồi hướng Bắc chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1438, 1334, 716, 1077 đến giới điểm số 16. Giới điểm này ở điểm có độ cao 1592, cách điểm có độ cao 1079 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,40 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 1026 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 3,25 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 1521 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,05 km về phía Tây - Tây Bắc.
Từ giới điểm số 16, đường biên giới theo sống núi, hướng chung Đông Nam chuyển Bắc, qua các điểm có độ cao 1578, 1503, 1493, 1359, 1342, 1296 đến điểm có độ cao 606, rồi theo sống núi nhỏ, hướng Bắc - Tây Bắc chuyển Đông Bắc đến giới điểm số 17. Giới điểm này ở giữa sông Miện (Babu), cách điểm có độ cao 654 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,30 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1383 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 4,10 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 882 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,70 km về phía Nam - Đông Nam.
Từ giới điểm số 17, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng chung Đông - Đông Bắc, đến điểm có độ cao 799, sau đó theo sống núi, hướng chung Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 998, 1096, 1029, 1092, 1251 đến điểm có độ cao 1132, rồi theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến điểm có độ cao 1628, sau đó theo sống núi, hướng chung Đông Nam chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1647, 1596, 1687, 1799, 1761, 1796 đến giới điểm số 18. Giới điểm này ở điểm có độ cao 1568, cách điểm có độ cao 1677 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,90 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 1701 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,70 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 1666 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,55 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 18, đường biên giới theo sống núi, hướng chung Đông - Đông Nam chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1771, 1756, 1707, 1500, 1683, 1771, 1651, 1545, 1928, 1718 đến điểm có độ cao 1576, sau đó theo hướng Tây Bắc vượt qua hai khe, qua điểm có độ cao 1397, rồi bắt vào sống núi, sau đó tiếp tục theo sống núi, hướng Tây Bắc chuyển Đông Bắc, qua điểm có độ cao 1748 đến điểm có độ cao 1743, sau đó tiếp tục theo sống núi, hướng Đông chuyển Bắc - Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1806, 1650, 1468, 1516, 1344, 1408 đến một chỏm núi không tên phía Tây Bắc của điểm có độ cao này, rồi theo sống núi, hướng Đông Bắc đến giới điểm số 19. Giới điểm này ở giữa sông Nho Quế (Pu Mei), cách điểm có độ cao 1477 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,60 km về phía Tây - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1464 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,30 km về phía Đông - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1337 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,20 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 19, đường biên giới xuôi sông Nho Quế (Pu Mei), hướng chung Đông Bắc chuyển Đông Nam đến giới điểm số 20. Giới điểm này ở giữa sông Nho Quế (Pu Mei), cách điểm có độ cao 1062 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,80 km về phía Đông - Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1080 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 5,20 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 1443 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,85 km về phía Nam.
Từ giới điểm số 20, đường biên giới rời sông bắt vào sống núi nhỏ, hướng Đông Bắc đến điểm có độ cao 801, sau đó theo đường thẳng, hướng Đông Nam khoảng 2400 in đến điểm có độ cao 1048, theo hướng Đông Nam cắt khe bắt vào sống núi, rồi theo sống núi, hướng chung Đông Nam chuyển Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1122, 1170, 1175 đến điểm có độ cao 1641, sau đó theo sống núi, hướng Tây Bắc, cắt khe, rồi bắt vào sống núi hướng Bắc - Đông Bắc qua các điểm có độ cao 1651, 1538 đến giới điểm số 21. Giới điểm này ở điểm có độ cao 1697, cách điểm có độ cao 1642 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,85 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 1660 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,80 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 1650 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,40 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 21, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng chung Đông Nam đến điểm có độ cao 1591, sau đó theo sống núi hướng Nam - Đông Nam qua các điểm có độ cao 1726, 1681, 1699 đến điểm có độ cao 1694, tiếp đó theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng Đông Nam, qua các điểm có độ cao 1514, 1486 đến điểm có độ cao 1502, rồi theo sống núi, hướng Nam chuyển Đông Nam qua các điểm có độ cao 1420, 1373, 1365 đến một chỏm núi không tên phía Bắc - Tây Bắc điểm có độ cao 1383 trong lãnh thổ Việt Nam, từ đó đường biên giới theo đường thẳng hướng Đông - Đông Bắc đến một chỏm núi nhỏ, sau đó lại theo đường thẳng tiếp tục theo hướng này đến giới điểm số 22. Giới điểm này ở giữa con sông không tên (Yan Dong), cách điểm có độ cao 1255 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,45 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 1336 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,30 km về phía Đông Nam, cách điểm có độ cao 956 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,22 km về phía Tây - Tây Nam.
Từ giới điểm số 22, đường biên giới xuôi theo sông không tên nói trên (Yan Dong), hướng Đông Bắc, sau đó rời sông, qua điểm có độ cao 888, bắt vào sống núi, hướng chung Đông Nam chuyển Nam - Tây Nam, qua điểm có độ cao 1091, một chỏm núi không tên phía Đông điểm có độ cao 1280 trong lãnh thổ Việt Nam, các điểm có độ cao 1288, 1282, 1320, 1212, 1218, 1098, 1408 đến điểm có độ cao 1403, rồi theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng chung là hướng Nam chuyển Đông Nam, qua các điểm có độ cao 1423, 1378 đến điểm có độ cao 451, sau đó theo sống núi, hướng Đông đến giới điểm số 23. Giới điểm này ở giữa suối Cốc Pàng, cách điểm có độ cao 962 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,10 km về phía Tây - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 680 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,55 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 723 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,60 km về phía Tây Nam.
Từ giới điểm số 23, đường biên giới rời suối theo khe hướng Đông, rồi theo con đường mé Nam sống núi hoặc trên sống núi, hướng chung là hướng Đông, qua các điểm có độ cao 914, 962, 901 đến điểm có độ cao 982, sau đó ngược sườn núi hướng Đông Bắc bắt vào sống núi, rồi theo sống núi, hướng chung là hướng Đông, qua các điểm có độ cao 819, 877 đến giới điểm số 24. Giới điểm này nằm ở một chỏm núi không tên, cách điểm có độ cao 783 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,53 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1418 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,15 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 779 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,00 km về phía Đông Nam.
Từ giới điểm số 24, đường biên giới theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước, hướng Bắc - Tây Bắc chuyển Đông Nam, qua các điểm có độ cao 1212, 1506, 1489, 1461 đến điểm có độ cao 921, sau đó theo hướng Đông - Đông Nam cắt suối Khui Giồng, rồi bắt vào sống núi, sau đó theo sống núi hướng chung Đông Nam, qua các điểm có độ cao 1265, 1191, 1301 đến giới điểm số 25. Giới điểm này ở giữa sông Gậm (Bai Nan), cách điểm có độ cao 798 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 1,70 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 755 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,65 km về phía Tây - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 936 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,45 km về phía Nam.
“Đường biên giới trên đất liền giữa hai nước mô tả ở điều này được vẽ bằng đường đỏtrên bản đồ tỷ lệ 1/50.000 do hai bên cùng xác định, độ dài và diện tích dùng trong mô tả đường biên giới được đo từ bản đồ này. Bộ bản đồ nói trên đính kèm Hiệp ước này là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước.”
Đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài. Từ cuối thế kỷ XIX đường biên giới lịch sử này trở thành đường biên giới pháp lý, vì đã được hoạch định trong hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887, 1895 và trên thực địa được hai bên phân giới và cắm hơn 300 mốc giới.
Hơn nữa, trải qua hơn một thế kỷ, nhiều mốc bị hư hỏng, thậm chí bị mất, một số mốc bị xê dịch so với vị trí vẽ trên bản đồ, địa hình, địa vật cũng có nhiều thay đổi. Bên cạnh những hạn chế trên, trong hơn 100 năm qua tình hình chính trị - xã hội ở mỗi nước có nhiều biến đổi, quan hệ giữa hai nước cũng đã trải qua các bước thăng trầm.
Toàn bộ các yếu tố đó dẫn đến việc hai bên có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới ở một số khu vực, làm cho tình hình ngày càng trở nên phức tạp và thường xuyên xảy ra tranh chấp trên toàn tuyến biên giới giữa hai bên.
Ngay từ những năm 50 của thế kỷ trước, ta và Trung Quốc đã nhận thức rõ yêu cầu khách quan của việc chuẩn xác lại đường biên giới trên đất liền giữa hai nước. Từ giữa những năm 70 hai bên cũng đã tiến hành đàm phán về vấn đề biên giới, lãnh thổ, song chưa đi tới thỏa thuận. Sau khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, hai nước mới bắt tay vào đàm phán thực chất.
Về vấn đề biên giới trên đất liền, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản năm 1993 đã đề ra một loạt các nguyên tắc chỉ đạo tiến trình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền giữa hai nước, cụ thể:
Một là, hai bên lấy các Công ước Pháp - Thanh năm 1887, 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo, cũng như các mốc giới cắm theo quy định để xác định lại đường biên giới trên đất liền. Đây là nguyên tắc cơ bản và quan trọng.
Hai là, trong quá trình đối chiếu xác định hướng đi của đường biên giới đối với những khu vực, sau khi đã đối chiếu nhiều lần mà vẫn không đi đến nhất trí, hai bên sẽ cùng nhau khảo sát thực địa, suy tính đến tình hình tồn tại khu vực với tinh thần thông cảm và nhân nhượng lẫn nhau, thương lượng hữu nghị để tìm giải pháp công bằng, hợp lý;
Ba là, sau khi hai bên đã đối chiếu xác định lại đường biên giới, bất cứ khu vực nào do một bên quản lý vượt quá đường biên giới, về nguyên tắc, phải được trả lại cho bên kia không điều kiện. Đối với một số vùng cá biệt, để tiện cho việc quản lý biên giới, hai bên có thể thông qua thương lượng hữu nghị điều chỉnh thích hợp theo tình thần thông cảm và nhân nhượng lẫn nhau, công bằng, hợp lý;
Bốn là, hai bên đồng ý tính đến mọi tình hình và tham khảo tập quán quốc tế để giải quyết biên giới trên sông, suối;
Năm là, đối với các khu vực dân cư hai bên đã sinh sống lâu đời (ở một số khu vực dân Trung Quốc cư trú quá đường biên giới, ở một số khu vực khác dân ta cư trú quá đường biên giới) thì hai bên nhất trí duy trì cuộc sống ổn định của dân cư.
Sáu là, hai bên thoả thuận lập Nhóm công tác liên hợp để bàn bạc cụ thể về các vấn đề liên quan. Từ năm 1994 đến 1999, Nhóm công tác liên hợp đã tiến hành 16 vòng đàm phán ở thủ đô Hà Nội và Bắc Kinh.
Qua đối chiếu, hai bên vẽ trùng khớp nhau khoảng 900 km trong tổng số 1.350 km toàn tuyến biên giới. Trong 450 km còn lại có 164 khu vực hai bên có nhận thức khác nhau, với tổng diện tích khoảng 227 km2 (các khu vực này được gọi là khu vực C). Ngoài ra, ở 125 khu vực khác với diện tích gần 5 km2 hai bên khác nhau do sai lệch về kỹ thuật và các khu vực này đã được giải quyết khá nhanh chóng bằng các biện pháp kỹ thuật một cách hợp lý, công bằng cho cả hai bên.
Thực chất của suốt quá trình đàm phán chính là tập trung giải quyết 164 khu vực C nói trên và đến cuối năm 1999 hai Đoàn đàm phán đã giải quyết xong toàn bộ 164 khu vực đó. Kết quả giải quyết là: trong tổng số 227 km2 của 164 khu vực này thì khoảng 113 km2 được xác định thuộc Việt Nam và khoảng 114 km2 được xác định thuộc Trung Quốc. Giải pháp đối với 164 khu vực C đã được hai bên mô tả trong Bản ghi nhận chung và sau đó đưa vào bản Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa hai nước năm 1999 (kèm theo Hiệp ước là bộ bản đồ tỷ lệ 1/50.000 gồm 34 mảnh). Những đoạn biên giới sông, suối đã được Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 quy định rõ ràng thì giải quyết theo đúng quy định của các Công ước đó. Còn những đoạn biên giới sông, suối chưa được hai Công ước nói trên quy định rõ ràng thì giải quyết theo đúng thông lệ quốc tế, cụ thể là: ở các đoạn sông, suối tàu thuyền đi lại được thì đường biên giới đi theo trung tuyến luồng chính tàu thuyền đi lại, còn ở những đoạn sông, suối tàu thuyền không đi lại được thì đường biên giới ở các sông, suối này sẽ đi theo trung tuyến dòng chảy hoặc dòng chảy chính.
Kết quả đàm phán và việc ký Hiệp ước năm 1999 về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc là phù hợp với các nguyên tắc cơ bản đã được hai bên thỏa thuận, bảo đảm công bằng và thỏa đáng cho cả hai bên, đáp ứng các lợi ích cơ bản, lâu dài của nước ta.
Hơn nữa, do nhiều nhân tố, hai bên có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới ở nhiều đoạn, do đó mới phải đàm phán. Đối với những khu vực mà bên này hoặc bên kia có đầy đủ cơ sở pháp lý (lời văn rõ ràng, hoặc đường biên giới trên bản đồ rõ ràng...) thì đất bên nào phải trả lại cho bên đó. Nhưng đối với những khu vực mà các cơ sở pháp lý không được đầy đủ thì tất yếu trong đàm phán không thể chỉ đáp ứng yêu cầu của một bên mà phải có sự nhân nhượng lẫn nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản được hai bên thỏa thuận, nhằm đạt được kết quả giải quyết công bằng và thỏa đáng cho cả hai bên.
Về thác Bản Giốc ở tỉnh Cao Bằng và khu vực Hữu Nghị Quan ở tỉnh Lạng Sơn thì sự thực như sau:
Hai khu vực này thuộc các khu vực phức tạp, nhạy cảm nhất trong quan hệ biên giới giữa hai nước. Trên thực tế, tại hai khu vực này đã từng xẩy ra tranh chấp phức tạp và kéo dài trong nhiều năm. Các văn bản pháp lý về hoạch định và phân giới cắm mốc giữa chính quyền Pháp và Nhà Thanh cũng có những điểm quy định không rõ ràng. Đường biên giới được vẽ trên bản đồ tỷ lệ lớn (1/100.000), địa hình ở khu vực Hữu Nghị Quan được vẽ tổng hợp, không phù hợp với địa hình tự nhiên trên thực địa, nên rất khó xác định hướng đi của đường biên giới. Những hạn chế về cơ sở pháp lý và điều kiện tự nhiên đó đã dẫn đến hai bên có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới ở hai khu vực này.
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các cơ sở và yếu tố có liên quan, hai bên đã thống nhất giải quyết hai khu vực nêu trên như sau:
a. Khu vực thác Bản Giốc là một trong số các khu vực đường biên giới đi theo sông, suối. Do đó, cũng như ở các khu vực sông, suối khác đường biên giới ở khu vực này được giải quyết theo tập quán quốc tế là theo trung tuyến dòng chảy chính; việc xác định trung tuyến dòng chảy chính ở thác Bản Giốc sẽ do hai bên cùng đo đạc xác định trong quá trình phân giới, cắm mốc và dòng chảy chính vẫn ở trên thác. Như vậy, hoàn toàn không có việc ta mất thác Bản Giốc mà chỉ là việc xác định hướng đi của đường biên giới phù hợp với nguyên tắc xác định hướng đi của đường biên giới trên sông, suối đã được hai bên thỏa thuận, phù hợp với tập quán quốc tế.
b. Khu vực Hữu Nghị Quan có liên quan đến đoạn biên giới đi qua đường bộ nối liền hai nước và đi qua tuyến đường sắt. Đối với đoạn đường bộ thì Biên bản hoạch định Pháp - Thanh năm 1886 quy định rằng đường biên giới "nằm ở phía Nam Ải Nam Quan, trên con đường từ Nam Quan đến làng Đồng Đăng". Khi phân giới, hai bên đã cắm mốc số 18 để xác định đường biên giới và vị trí của mốc này cũng được mô tả là nằm trên đường từ Nam Quan đến Đông Đăng (mốc này đã bị mất); còn trên bản đồ cắm mốc Pháp - Thanh năm 1894 thì địa danh Nam Quan nằm ở phía Bắc đường biên giới. Như vậy, đường biên giới luôn luôn ở phía Nam của Nam Quan, chứ không phải đi qua địa danh đó. Đối với đoạn đường sắt, phía Trung Quốc cho rằng đường biên giới đi qua điểm nối ray, nhưng qua đàm phán hai bên đã đi đến giải pháp là đường biên giới nằm ở phía Bắc điểm nối ray 148 m, chứ không phải ở điểm nối ray như ý kiến của Trung Quốc.
Như vậy, có thể khẳng định rằng về tổng thể, các giải pháp đạt được trong việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền nói chung và đối với hai khu vực cụ thể nói trên là thỏa đáng, đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của cả hai bên; những thông tin do bọn phản động và cơ hội chính trị tung ra là hoàn toàn bịa đặt, không có căn cứ và chỉ nhằm phục vụ cho những ý đồ chính trị đen tối.
Với việc ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền, ta đã giải quyết dứt điểm được một trong ba vấn đề biên giới, lãnh thổ tồn tại lâu nay với Trung Quốc (biên giới trên đất liền, Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông). Hiệp ước là kết quả của quá trình đàm phán lâu dài, thể hiện nỗ lực của hai bên, có tính đầy đủ đến luật pháp quốc tế, thực tiễn quốc tế cũng như sự nhân nhượng từ cả hai phía.
Một điểm cần nhấn mạnh là so với những quy định của các Công ước Pháp - Thanh trước đây thì lời văn của Hiệp ước biên giới trên đất liền ký ngày 30/12/1999 đã xác định cụ thể và rõ ràng hơn đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việc xác định rõ ràng hơn đường biên giới trên đất liền bằng các phương tiện hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý và duy trì ổn định ở vùng biên giới.
Bước phát triển này giúp chúng ta thực hiện được mục tiêu xây dựng biên giới Việt - Trung thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị và ổn định, góp phần tăng cường sự tin cậy giữa hai bên, tạo động lực thúc đẩy và phát triển quan hệ hợp tác mọi mặt với Trung Quốc theo phương châm"Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai".
Việc giải quyết được vấn đề biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc là sự kiện quan trọng, có ý nghĩa lịch sử đối với nước ta cũng như quan hệ Việt- Trung, đồng thời là một nhân tố góp phần vào sự ổn định trong khu vực, được nhân dân cả nước hoan nghênh, thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế và khu vực.
Nước ta đã ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia với Lào và Campuchia, Hiệp định phân định vùng biển với Thái Lan; thỏa thuận về khai thác chung vùng biển chồng lấn với Malaysia; hiện nay đang tích cực thúc đẩy đàm phán giải quyết một số vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ với Campuchia và đàm phán với Indonesia về thềm lục địa. Trong bối cảnh đó, việc giải quyết được vấn đề biên giới trên đất liền qua việc ký Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa ta và Trung Quốc là bước tiến mới quan trọng trong việc tăng cường quan hệ hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng, góp phần tích cực vào việc củng cố hòa bình và ổn định trong khu vực.
Hiện nay, 12 nhóm phân giới cắm mốc liên hợp đang tiến hành họp để bàn cụ thể và triển khai công tác phân giới, cắm mốc trên toàn tuyến bắt đầu từ tháng 9/2002. Hai bên đang phấn đấu để hoàn thành công việc phân giới, cắm mốc trong vòng 3 năm. Sau đó ký Nghị định thư phân giới, cắm mốc cũng như Hiệp định về quy chế biên giới như thông thường lâu nay vẫn làm.
" Và cũng xin mở dấu ngoặc là Thác Bản Giốc này mặc dù là (Hà Nội) chưa công bố bản đồ, tức là không ai biết cái Thác Bản Giốc này trên bản đồ (đính kèm hiệp ước biên giới năm 1999), nhưng mà phía bên Trung Quốc đã cho tổ chức đi du lịch ở vùng này và họ gọi cái thác Bản Giốc là Đức Thiên Mộc Bố (Thác Đức Thiên)."
Lúc đó con cháu của chúng ta sẽ được biết ai là người đã ký.
Gửi phản hồi mới (xin gõ tiếng Việt có dấu và tuân thủ Nguyên tắc Dân Luận để được chấp nhận)