Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay 82
Kỳ 82: Cái chết của Ban-thiền Lạt-ma và án tử hình ở Lhasa.
Kỳ 83: Đức Đạt – lai Lạt – ma tiên tri và tái sinh
Kỳ 82: Cái chết của Ban-thiền Lạt-ma và án tử hình ở Lhasa
Giao Hưởng Đăng Bởi Một Thế Giới 11-11-2014
Các án tử hình và chung thân được tuyên vào cuối phiên tòa công khai xử “12 phần tử phạm tội” trong cuộc biểu tình đòi Tây Tạng độc lập trên đường phố Lhasa (năm 1989) liên quan xa gần đến cái chết đột ngột của Ban-thiền Lạt-ma từng bị Mao Trạch Đông bắt giam tại Bắc Kinh khi cách mạng văn hóa bùng nổ năm 1966…
Mao Trạch Đông (giữa) và Ban-thiền Lạt-ma (trái) cùng Đạt-lai Lạt-ma
Mao Mao viết: “Năm 1966, lịch sử nước Trung Hoa mới đã mở sang một trang bất hạnh (…) Cha tôi, gia đình tôi, toàn thể nhân dân Trung Quốc đều trải qua một thời kỳ điêu đứng, mê loạn, chính trị đảo điên, tình người điên đảo” (Cha tôi Đặng Tiểu Bình – sđd. tr. 853). Thời kỳ ấy, Mao Trạch Đông “phát động căm hờn” để các tiểu quỷ hồng vệ binh tấn công 2700 đền chùa Tây Tạng, xâm hại ngôi danh lam thiêng liêng Trát-thập Luân-bố.
Trát-thập Luân-bố, tiếng Tây Tạng là: Bkra-sis Ihun-po.
Bkra-sis nghĩa là: hạnh phúc, cát tường.
Ihun-po: ngọn núi.
Cho nên “tên chùa này có thể dịch là: Hạnh phúc sơn, hoặc Cát tường sơn” (tọa lạc ở thành Nhật-cấp-tắc Shigatsé) với 3.000 gian điện đường, 4 học viện mật thừa và hiển thừa, 14 kim đỉnh, tượng Phật Di Lặc bằng đồng mạ vàng cao 26,8 mét, nhiều bích họa và ấn chương bằng vàng ngọc (như ấn Đại tự đồ do Quốc sư đời Nguyên là Bát-tư-ba chế tác có khắc tiếng Mông Cổ), cùng các di vật có giá trị văn hóa khác.
Sáng lập bởi Đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ nhất (được xem là hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm), đến đời Đạt-lai Lạt-ma thứ 5 “trở thành hệ thống của Ban-thiền, tăng chúng 3.800 vị, khi hưng thịnh có đến 7.000 vị” (Từ điển Phật học Huệ Quang – Hòa thượng Thích Minh Cảnh chủ biên, NXB Tổng hợp TP. HCM – 2005, tập VII, tr. 5752). Chua xót nhất của danh lam này là đã bị hủy hoại ngôi tháp dát bạc và khảm ngọc thạch dùng tôn thờ di thể (xác ướp) của các Ban-thiền.
Về Ban-thiền Lạt-ma, Đoàn Trung Còn viết: Ở Tây Tạng “có hai vị Phật sống (Hoạt-Phật) chức vị lớn nhứt: Ngài Đạt-lai Lạt-ma (ngự ở kinh thành Lhasa) và ngài Ban-thiền Lạt-ma (ngự ở Trát-thập Luân-bố – Shigatsé). Ngài Đạt-lại Lạt-ma thì cầm quyền quốc chánh và tôn giáo. Còn ngài Ban-thiền Lạt-ma thì được coi như bậc thầy cả về tôn giáo. Có khi ngài Đạt-lai Lạt-ma vắng mặt hoặc tịch hóa thì ngài Ban-thiền Lạt-ma thay quyền.
Các nhà đạo đức có dịp viếng qua xứ Tây Tạng và chầu đức Phật sống Ban-thiền Lạt-ma đều công nhận rằng ngài có mật hạnh, cốt cách hiền hòa và có dạ từ bi, hẳn là bực Phật Thánh giáng trần”. (Phật học từ điển, Quyển I, Phật học toàn thư xuất bản, Sài Gòn 1966). Tìm hiểu về Ban-thiền Lạt-ma, quý độc giả vui lòng tham khảo thêm: Từ điển Phật học Hán – Việt, Hòa thượng Kim Cương Tử chủ biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1998, tr.85. Và: Từ điển Phật học Huệ Quang, sđd. Tập I, tr.260.
Linh tháp chùa Trát-thập Luân-bố thờ 5 di thể Ban-thiền Lạt-ma đời thứ 5 đến đời thứ 9. Ban-thiền Lạt-ma đời thứ 10 đã viết bức thư dài 70.000 chữ phản đối Mao Trạch Đông phá hoại chùa Trát-thập Luân-bố và triệt bỏ linh tháp. Mao tức giận, kết tội và bắt giam Ban-thiền. Mã Linh – Lý Minh viết: “Do bất mãn với cách làm kích động trong đại cách mạng văn hóa, Ban-thiền đã gởi lên trung ương một bản thất vạn ngôn thư (bức thư bảy vạn chữ) nên bị (Mao Trạch Đông) gán tội tống giam vào tù” – Hồng Phượng dịch, sđd ở Kỳ 77, tr. 214.
Đạt-lai Lạt-ma và Ban-thiền Lạt-ma đều bảo vệ Phật pháp Tây Tạng, song hai ngài có hai cách xử thế khác nhau. Ngài Đạt-lai Lạt-ma (thứ 14) phản đối quyết liệt đối sách của Mao Trạch Đông ghép Tây Tạng vào Trung Quốc.
Ngài Ban-thiền Lạt-ma (đời thứ 10) liên lạc và lên tiếng ủng hộ Đảng CS Trung Quốc từ lúc Mao Trạch Đông chưa về đến Bắc Kinh. Sau ngày Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước CHND Trung Hoa, Ban-thiền công khai tán thành chủ trương “giải phóng hòa bình Tây Tạng”của Mao. Dầu vậy, Mao vẫn không nể nang gì, trả đũa đàn áp thẳng tay những chỉ trích thẳng thắn của Ban-thiền Lạt-ma (về các sai lầm của Mao). Quyết liệt hơn, Mao kết tội Ban-thiền Lạt-ma theo con đường hữu khuynh để giam vào ngục: “mãi cuối thập niên 1970, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu dẹp loạn uốn nắn, Ban-thiền lại được trả tự do, khôi phục chức vụ (Phó Chủ tịch Quốc hội – Phó Chủ tịch Hội nghị hiệp thương chính trị toàn quốc – GH)”
Ra tù, Ban-thiền Lạt-ma về thăm chùa xưa Trát-thập Luân bố sau 18 năm xa cách. Các tín đồ quyết tử tìm đến “đem di hài của số cao tăng mà họ đã mạo hiểm cả tính mạng giữ lại được trong đại cách mạng văn hóa” giao ngài.
Ban-thiền thỉnh nguyện Đặng Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo Trung Nam Hải xây lại các Phật điện và ngôi linh pháp để hợp tán di hài của 5 vị Ban-thiền và được chấp thuận. Bắc Kinh “đền bù” phần nào và đã cấp “108,35 ki-lô vàng, 1.000 ki-lô bạc” để xây linh tháp.
Sau 3 năm thi công, tháp hoàn thành ngày 10.12.1988 với “diện tích 1.933 mét vuông, cao 33,17 thước tây, tầng tháp cao 11,52 thước tây”. Lễ khai quang cử hành 20.1.1989 do ngài Ban-thiền chủ trì và Bí thư đảng ủy khu tự trị Tây Tạng Hồ Cẩm Đào đọc diễn văn chúc mừng.
Một tuần sau, ngài Ban-thiền chưa kịp về lại Bắc Kinh “đột nhiên bị nhồi máu cơ tim 28.1.1989” (sđd 218). Từ Bắc Kinh, Ôn Gia Bảo (bấy giờ là Bí thư dự khuyết Ban bí thư trung ương Đảng) lập tức dẫn các chuyên gia bệnh tim đáp chuyên cơ bay đến Tây Tạng, nhưng không kịp nữa. Ban-thiền qua đời ngay hôm đó (28.1).
Do cái chết đột ngột của Ban-thiền Lạt-ma, Đại pháp hội truyền chiếu (sinh hoạt truyền thống đã có ngót 500 năm ở Tây Tạng) sắp tổ chức phải hoãn lại. Thêm nữa, Bắc Kinh lo ngại nếu tổ chức Đại pháp hội vào dịp tròn 30 năm ngài Đạt-lai Lạt-ma phát động vũ trang giành độc lập Tây Tạng (1959-1989) sẽ có khả năng xảy ra sự biến không hay.
Quyết định hủy bỏ “đại pháp hội truyền chiếu” gây chấn động lớn trong dân chúng và Phật giáo đồ Tây Tạng. Lhasa liên tục diễn ra 4 vụ diễu hành đòi độc lập (từ 13.2 đến đầu 3.1989), lên đỉnh điểm ngày 5.3 với cuộc xuống đường của hơn 2.000 Phật tử: “Một số người bắt đầu xông vào đập phá cơ quan quận ủy và cơ quan chính quyền quận Thành Quan, ném đá vào đồn công an, trên phố đèn đuốc sáng rực. Trong cuộc gây rối ngày hôm đó, tổng cộng có 11 người chết, hơn 100 người bị thương”.
Hai ngày sau, bạo động vẫn tiếp diễn, Bắc Kinh ra lệnh cấm không ai được phép ra đường, đi lại. Thành phố Lhasa vắng ngắt, chỉ còn quân đội Trung Quốc và xe tăng án ngữ. Thống kê cho biết trong đợt đấu tranh đó có “gần 100 cửa hàng tư nhân và cửa hàng quốc doanh, tập thể bị đập phá hoàn toàn – 9 cơ quan chính quyền, 1 trường tiểu học, 2 ủy ban khu phố và một phân cục công an, 1 trụ sở phục vụ bảo an, 3 đồn công an bị đập phá, hơn 20 chiếc ô tô bị đốt, 1.004 sạp bán hàng tư nhân trên phố Bát Khoách không thể kinh doanh được từ ngày 4 đến ngày 7.3.1989” (Mã Linh – Lý Minh, sđd. tr. 222 – 223).
Nhiều người bị bắt và Lhasa mở phiên tòa đặc biệt xét xử “12 phần tử phạm tội trong sự kiện gây rối ở Lhasa ngày 5.3.1989” với án tử hình và tù chung thân. Đưa tin trên, tờ Tây Tạng nhật báo gọi những người biểu tình đòi độc lập Tây Tạng là “yêu ma” và cảnh báo “luật phápcủa chúng ta (Trung Quốc) không phải là mũi “kim thêu” mà là “gậy giáng yêu” (chữ dùng của bài xã luận). Vượt lên những đe dọa, Lhasa vẫn tiếp tục chứng tỏ bản lĩnh “hoa sen trong biển lửa” vào thập niên đầu của thế kỷ 21.
Kỳ 83: Đức Đạt – lai Lạt – ma tiên tri và tái sinh
Việc Mao Trạch Đông quyết định dùng vũ lực để “giải quyết vấn đề Tây Tạng” đã được đức Đạt – lai Lạt – ma đời thứ 13 (1876 – 1933) tiên đoán và cảnh báo ở Potala từ đầu thập niên 1930…
Đức Đạt-lai Lạt-ma
Dầu đã biến Tây Tạng thành khu tự trị của Trung Quốc (1965), Mao Trạch Đông và các “hậu duệ” của Mao vẫn tiếp tục dùng vũ lực trấn áp. Từ Mao đến Đặng Tiểu Bình – Hồ Diệu Bang đã cử cả thảy 6 đại thần Trung Nam Hải lần lượt (trong vòng 25 năm) đến trấn đóng Lhasa, với chức danh Bí thư đảng ủy khu tự trị và với đặc điểm chung: tất cả đều xuất thân từ quân đội và đều đàn áp những đòi hỏi dân chủ của người dân Lhasa theo cung cách cứng rắn của “con nhà võ”. Chẳng hạn: mấy tháng cuối trong nhiệm kỳ của “thái thú” Ngũ Tinh Hoa nổ ra 10 vụ biểu tình phản kháng bị đàn áp. Cuốn “Hồ Cẩm Đào – con đường phía trước” ghi:
“Pằng, pằng, pằng… ngày 10.12.1988, trên đường phố Lhasa đã vang lên tiếng súng. Ngày hôm đó, một bộ phận lạt-ma và tín đồ đã giương ngọn cờ tuyết sơn sư tử, tiến hành hoạt động thị uy tại khu phố đông đúc và xảy ra xung đột nghiêm trọng với cảnh sát tới can ngăn, kết quả là một lạt-ma bị chết, 13 người bị thương” (Mã Linh – Lý Minh - sđd. Kỳ 77, tr. 202-203). Thấy “cây gậy” khạc lửa không công hiệu, Trung Nam Hải cách chức Ngũ Tinh Hoa (điều về Ủy ban dân tộc nhà nước ở Bắc Kinh). Người thứ 7 đến Lhasa thay thế là Hồ Cẩm Đào – “quan văn” đầu tiên (so với 6 đại thần “quan võ” tiền nhiệm). Tuy vậy, các đợt xuống đường đòi độc lập vẫn không lắng xuống (xem Kỳ 82)…
Biến động lịch sử hiện đại của Tây Tạng (với đôi nét thời sự trên) về đại thể đã nằm trong tiên đoán của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 13 (cũng như các Đạt-lai Lạt-ma đời trước nữa) qua tiên tri ghi trong cổ thư, hoặc khắc trên đá. Lobsang Rampa khẳng định “tiên tri Tây Tạng là một khoa học vô cùng chính xác dựa qua sự giám sát của môn chiêm tinh” – bằng chứng:
1. Những tiên tri của Tây Tạng về thế kỷ 20 như: “Năm 1910: quân đội Trung Hoa xuất hiện ở Lhasa – Năm 1911: Trung Hoa có biến động (cách mạng Tân Hợi) – Năm 1914: Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Năm 1933: đức Đạt – lai Lạt – ma đời thứ 13 từ trần. Năm 1935: đức Đạt-lai Lạt-ma tái sinh”. Tất cả diễn ra đúng như thế. L. Rampa ghi nhận: sứ thần Anh quốc ở Lhasa là ngài Charles Bell tận mắt đọc những tiên tri đó và ghi vào tài liệu đặc biệt gởi về Bộ ngoại giao “đến nay vẫn còn được lưu trữ tại Thư viện hoàng gia Anh”(L. Rampa - sđd. Kỳ 80. tr. 93).
2. Tiên tri đời Đạt-lai Lạt-ma thứ 9 (Long-đa-gia-mục-thố 1805-1816) được khắc trên một tấm đá, rằng: 100 năm nữa người Anh sẽ mang quân đánh chiếm Tây Tạng (ghi cả năm xảy ra biến cố trên):
“Năm Mộc Long (1904) trong bốn tháng đầu, đức Đạt-lai Lạt-ma sẽ được bình yên nhưng sau đó quân xâm lăng sẽ kéo vào lãnh thổ. Địch quân rất đông, gây nhiều tai họa và dân chúng sẽ phải chịu nạn đao binh. Đến cuối năm sẽ có một cuộc hòa giải và chiến tranh sẽ chấm dứt”. Chính thiếu tướng Young Husband, tư lệnh quân đội Anh (ở Tây Tạng), cũng đã được coi bản văn này và ghi nhận trong cuốn hồi ký của ông.
“Khi cuốn sách này được xuất bản lần đầu, có người hỏi tôi: “Tại sao biết trước như thế mà lại không tránh đi, việc gì cam chịu như vậy?”. Tôi chỉ có thể nói rằng nếu người ta có thể tránh khỏi những điều đã tiên tri từ trước thì điều tiên tri đó đã sai” (L. Rampa - sđd. tr. 91).
Quả nhiên, quân đội Anh do tướng Young Husband chỉ huy tiến đánh Tây Tạng và thủ đô Lhasa thất thủ sau 6 tháng cầm cự vào mùa thu 1904. Sang mùa đông năm đó, để bảo vệ nền tự trị Tây Tạng, thân phụ của lạt-ma Lobsang Rampa (xem Kỳ 81) được ủy nhiệm của đức Đạt-lai Lạt-ma và hội đồng nội các điện Potala đã thương thuyết để ký với nước Anh hòa ước năm 1905 nhường 3 tỉnh phía tây của Tây Tạng cho Anh.
Do vậy hòa bình lập lại. Nhưng không bao lâu đến lượt Trung Hoa (nhà Thanh) trách Tây Tạng nhường đất cho Anh, lấy cớ Đạt-lai Lạt-ma có đường lối ngoại giao thân các nước Tây phương (tạo mối đe dọa an ninh đối với “thiên triều”) nên kéo quân xâm chiếm. Ngài Đạt-lai Lạt-ma (đời thứ 13) phải sang Ấn Độ tỵ nạn (1910). Năm sau, cách mạng Tân Hợi bùng nổ (1911), hoàng đế Phổ Nghi phải thoái vị (1912 – xem Kỳ 71 và 72), quân Trung Hoa rút khỏi Tây Tạng và Đạt-lai Lạt-ma về lại Lhasa, truyền Lobsang Rampa đến gặp ngài ở điện Potala theo một lối đi riêng. Ngài báo trước:
- Không lâu nữa, Tây Tạng lại sẽ phải đứng trước cuộc xâm lăng bằng vũ lực (của Mao Trạch Đông) từ bên ngoài vào…
Và thông báo phải sơ tán, chôn giấu ngay những bí mật quốc gia bao gồm các cổ thư cùng nhiều tài liệu của tiền nhân để lại, khóa kín cửa vào kho tàng vô giá của Tây Tạng trước khi kẻ địch hung hãn đặt chân đến Lhasa. Đạt-lai Lạt-ma (thứ 13) bảo Rampa: – Con là một người lãnh sứ mạng ra ngoại quốc để chuẩn bị cho đấng Đạt-lai Lạt-ma tương lai (thứ 14) sẽ phải lưu vong tại đó (L.Rampa – sđd. tr. 90). Rõ hơn nữa (lời sư phụ):
– Quân Trung Hoa sẽ xâm lăng xứ này, đến khi đó thì con đã sống ở ngoại quốc, còn ta sẽ không còn ở cõi đời này nữa (L. Rampa – sđd. tr.73).
Theo sứ mệnh được giao, lạt-ma Rampa sang Trung Quốc (lúc Mao Trạch Đông và đảng CSTQ đang sửa soạn bước vào Vạn lý trường chinh) thành lập đoàn Y sĩ du hành (Barefoot Doctor) để cứu trợ các nạn nhân chiến cuộc (thiện nguyện) để rồi “bị người Nhật nghi ngờ và tra tấn gần chết – được đưa về Anh điều trị và sau đó đã giảng dạy môn Đông y tại châu Âu” (L. Rampa – sđd. tr. 119). Tiếp đó, Rampa đi nhiều quốc gia trên thế giới và bùi ngùi nhìn lại đất nước Tây Tạng của mình, tự nhận xét (tóm lược):
Bề ngoài Tây Tạng không có nguồn lợi kinh tế nào đáng kể, vì mặt đất cằn cỗi toàn đá cứng, đồng ruộng núi đồi quanh năm tuyết phủ. Nhưng thực ra, trong lòng đất “Tây Tạng cũng có đủ những mỏ vàng, mỏ bạc và uranium”, nhiều không kể xiết “những tượng Phật đúc bằng vàng khối, những đĩa vàng, chén vàng, những xác ướp bọc vàng- tại xứ này vàng không phải là một kim loại hiếm quý – mà là một kim khí linh thiêng”. Người dân bao đời giữ niềm tin mỏ vàng mỏ bạc “là long mạch của quốc gia” nên nếu khai quật sẽ mang lại tai ương không lường trước được. Tài nguyên ẩn kín và vị trí chiến lược của Tây Tạng trên dãy Hymalaya thu hút “lòng tham không đáy” của các quốc gia quen lấy “sự chiếm đoạt tài sản của nước khác”làm tài sản của mình, đã nâng các cuộc xâm lược đẫm máu lên hàng quốc sách (L. Rampa – sđd. tr. 88). Trung Quốc đang khuấy động Hymalaya – Tây Tạng (tổ sơn) và khuấy nhiễu biển Đông (tổ long), sẽ phải gánh chịu hậu quả khủng khiếp ra sao? Mời bạn đọc theo dõi câu trả lời qua tài liệu đặc biệt Kỳ 84 của loạt bài này: “Tiên tri về tương lai Trung Quốc”
Kỳ 83: Đức Đạt – lai Lạt – ma tiên tri và tái sinh
Kỳ 82: Cái chết của Ban-thiền Lạt-ma và án tử hình ở Lhasa
Giao Hưởng Đăng Bởi Một Thế Giới 11-11-2014
Các án tử hình và chung thân được tuyên vào cuối phiên tòa công khai xử “12 phần tử phạm tội” trong cuộc biểu tình đòi Tây Tạng độc lập trên đường phố Lhasa (năm 1989) liên quan xa gần đến cái chết đột ngột của Ban-thiền Lạt-ma từng bị Mao Trạch Đông bắt giam tại Bắc Kinh khi cách mạng văn hóa bùng nổ năm 1966…
Mao Trạch Đông (giữa) và Ban-thiền Lạt-ma (trái) cùng Đạt-lai Lạt-ma
Trát-thập Luân-bố, tiếng Tây Tạng là: Bkra-sis Ihun-po.
Bkra-sis nghĩa là: hạnh phúc, cát tường.
Ihun-po: ngọn núi.
Cho nên “tên chùa này có thể dịch là: Hạnh phúc sơn, hoặc Cát tường sơn” (tọa lạc ở thành Nhật-cấp-tắc Shigatsé) với 3.000 gian điện đường, 4 học viện mật thừa và hiển thừa, 14 kim đỉnh, tượng Phật Di Lặc bằng đồng mạ vàng cao 26,8 mét, nhiều bích họa và ấn chương bằng vàng ngọc (như ấn Đại tự đồ do Quốc sư đời Nguyên là Bát-tư-ba chế tác có khắc tiếng Mông Cổ), cùng các di vật có giá trị văn hóa khác.
Sáng lập bởi Đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ nhất (được xem là hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm), đến đời Đạt-lai Lạt-ma thứ 5 “trở thành hệ thống của Ban-thiền, tăng chúng 3.800 vị, khi hưng thịnh có đến 7.000 vị” (Từ điển Phật học Huệ Quang – Hòa thượng Thích Minh Cảnh chủ biên, NXB Tổng hợp TP. HCM – 2005, tập VII, tr. 5752). Chua xót nhất của danh lam này là đã bị hủy hoại ngôi tháp dát bạc và khảm ngọc thạch dùng tôn thờ di thể (xác ướp) của các Ban-thiền.
Về Ban-thiền Lạt-ma, Đoàn Trung Còn viết: Ở Tây Tạng “có hai vị Phật sống (Hoạt-Phật) chức vị lớn nhứt: Ngài Đạt-lai Lạt-ma (ngự ở kinh thành Lhasa) và ngài Ban-thiền Lạt-ma (ngự ở Trát-thập Luân-bố – Shigatsé). Ngài Đạt-lại Lạt-ma thì cầm quyền quốc chánh và tôn giáo. Còn ngài Ban-thiền Lạt-ma thì được coi như bậc thầy cả về tôn giáo. Có khi ngài Đạt-lai Lạt-ma vắng mặt hoặc tịch hóa thì ngài Ban-thiền Lạt-ma thay quyền.
Các nhà đạo đức có dịp viếng qua xứ Tây Tạng và chầu đức Phật sống Ban-thiền Lạt-ma đều công nhận rằng ngài có mật hạnh, cốt cách hiền hòa và có dạ từ bi, hẳn là bực Phật Thánh giáng trần”. (Phật học từ điển, Quyển I, Phật học toàn thư xuất bản, Sài Gòn 1966). Tìm hiểu về Ban-thiền Lạt-ma, quý độc giả vui lòng tham khảo thêm: Từ điển Phật học Hán – Việt, Hòa thượng Kim Cương Tử chủ biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1998, tr.85. Và: Từ điển Phật học Huệ Quang, sđd. Tập I, tr.260.
Linh tháp chùa Trát-thập Luân-bố thờ 5 di thể Ban-thiền Lạt-ma đời thứ 5 đến đời thứ 9. Ban-thiền Lạt-ma đời thứ 10 đã viết bức thư dài 70.000 chữ phản đối Mao Trạch Đông phá hoại chùa Trát-thập Luân-bố và triệt bỏ linh tháp. Mao tức giận, kết tội và bắt giam Ban-thiền. Mã Linh – Lý Minh viết: “Do bất mãn với cách làm kích động trong đại cách mạng văn hóa, Ban-thiền đã gởi lên trung ương một bản thất vạn ngôn thư (bức thư bảy vạn chữ) nên bị (Mao Trạch Đông) gán tội tống giam vào tù” – Hồng Phượng dịch, sđd ở Kỳ 77, tr. 214.
Đạt-lai Lạt-ma và Ban-thiền Lạt-ma đều bảo vệ Phật pháp Tây Tạng, song hai ngài có hai cách xử thế khác nhau. Ngài Đạt-lai Lạt-ma (thứ 14) phản đối quyết liệt đối sách của Mao Trạch Đông ghép Tây Tạng vào Trung Quốc.
Ngài Ban-thiền Lạt-ma (đời thứ 10) liên lạc và lên tiếng ủng hộ Đảng CS Trung Quốc từ lúc Mao Trạch Đông chưa về đến Bắc Kinh. Sau ngày Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước CHND Trung Hoa, Ban-thiền công khai tán thành chủ trương “giải phóng hòa bình Tây Tạng”của Mao. Dầu vậy, Mao vẫn không nể nang gì, trả đũa đàn áp thẳng tay những chỉ trích thẳng thắn của Ban-thiền Lạt-ma (về các sai lầm của Mao). Quyết liệt hơn, Mao kết tội Ban-thiền Lạt-ma theo con đường hữu khuynh để giam vào ngục: “mãi cuối thập niên 1970, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu dẹp loạn uốn nắn, Ban-thiền lại được trả tự do, khôi phục chức vụ (Phó Chủ tịch Quốc hội – Phó Chủ tịch Hội nghị hiệp thương chính trị toàn quốc – GH)”
Ra tù, Ban-thiền Lạt-ma về thăm chùa xưa Trát-thập Luân bố sau 18 năm xa cách. Các tín đồ quyết tử tìm đến “đem di hài của số cao tăng mà họ đã mạo hiểm cả tính mạng giữ lại được trong đại cách mạng văn hóa” giao ngài.
Ban-thiền thỉnh nguyện Đặng Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo Trung Nam Hải xây lại các Phật điện và ngôi linh pháp để hợp tán di hài của 5 vị Ban-thiền và được chấp thuận. Bắc Kinh “đền bù” phần nào và đã cấp “108,35 ki-lô vàng, 1.000 ki-lô bạc” để xây linh tháp.
Sau 3 năm thi công, tháp hoàn thành ngày 10.12.1988 với “diện tích 1.933 mét vuông, cao 33,17 thước tây, tầng tháp cao 11,52 thước tây”. Lễ khai quang cử hành 20.1.1989 do ngài Ban-thiền chủ trì và Bí thư đảng ủy khu tự trị Tây Tạng Hồ Cẩm Đào đọc diễn văn chúc mừng.
Một tuần sau, ngài Ban-thiền chưa kịp về lại Bắc Kinh “đột nhiên bị nhồi máu cơ tim 28.1.1989” (sđd 218). Từ Bắc Kinh, Ôn Gia Bảo (bấy giờ là Bí thư dự khuyết Ban bí thư trung ương Đảng) lập tức dẫn các chuyên gia bệnh tim đáp chuyên cơ bay đến Tây Tạng, nhưng không kịp nữa. Ban-thiền qua đời ngay hôm đó (28.1).
Do cái chết đột ngột của Ban-thiền Lạt-ma, Đại pháp hội truyền chiếu (sinh hoạt truyền thống đã có ngót 500 năm ở Tây Tạng) sắp tổ chức phải hoãn lại. Thêm nữa, Bắc Kinh lo ngại nếu tổ chức Đại pháp hội vào dịp tròn 30 năm ngài Đạt-lai Lạt-ma phát động vũ trang giành độc lập Tây Tạng (1959-1989) sẽ có khả năng xảy ra sự biến không hay.
Quyết định hủy bỏ “đại pháp hội truyền chiếu” gây chấn động lớn trong dân chúng và Phật giáo đồ Tây Tạng. Lhasa liên tục diễn ra 4 vụ diễu hành đòi độc lập (từ 13.2 đến đầu 3.1989), lên đỉnh điểm ngày 5.3 với cuộc xuống đường của hơn 2.000 Phật tử: “Một số người bắt đầu xông vào đập phá cơ quan quận ủy và cơ quan chính quyền quận Thành Quan, ném đá vào đồn công an, trên phố đèn đuốc sáng rực. Trong cuộc gây rối ngày hôm đó, tổng cộng có 11 người chết, hơn 100 người bị thương”.
Hai ngày sau, bạo động vẫn tiếp diễn, Bắc Kinh ra lệnh cấm không ai được phép ra đường, đi lại. Thành phố Lhasa vắng ngắt, chỉ còn quân đội Trung Quốc và xe tăng án ngữ. Thống kê cho biết trong đợt đấu tranh đó có “gần 100 cửa hàng tư nhân và cửa hàng quốc doanh, tập thể bị đập phá hoàn toàn – 9 cơ quan chính quyền, 1 trường tiểu học, 2 ủy ban khu phố và một phân cục công an, 1 trụ sở phục vụ bảo an, 3 đồn công an bị đập phá, hơn 20 chiếc ô tô bị đốt, 1.004 sạp bán hàng tư nhân trên phố Bát Khoách không thể kinh doanh được từ ngày 4 đến ngày 7.3.1989” (Mã Linh – Lý Minh, sđd. tr. 222 – 223).
Nhiều người bị bắt và Lhasa mở phiên tòa đặc biệt xét xử “12 phần tử phạm tội trong sự kiện gây rối ở Lhasa ngày 5.3.1989” với án tử hình và tù chung thân. Đưa tin trên, tờ Tây Tạng nhật báo gọi những người biểu tình đòi độc lập Tây Tạng là “yêu ma” và cảnh báo “luật phápcủa chúng ta (Trung Quốc) không phải là mũi “kim thêu” mà là “gậy giáng yêu” (chữ dùng của bài xã luận). Vượt lên những đe dọa, Lhasa vẫn tiếp tục chứng tỏ bản lĩnh “hoa sen trong biển lửa” vào thập niên đầu của thế kỷ 21.
Kỳ 83: Đức Đạt – lai Lạt – ma tiên tri và tái sinh
Việc Mao Trạch Đông quyết định dùng vũ lực để “giải quyết vấn đề Tây Tạng” đã được đức Đạt – lai Lạt – ma đời thứ 13 (1876 – 1933) tiên đoán và cảnh báo ở Potala từ đầu thập niên 1930…
Đức Đạt-lai Lạt-ma
“Pằng, pằng, pằng… ngày 10.12.1988, trên đường phố Lhasa đã vang lên tiếng súng. Ngày hôm đó, một bộ phận lạt-ma và tín đồ đã giương ngọn cờ tuyết sơn sư tử, tiến hành hoạt động thị uy tại khu phố đông đúc và xảy ra xung đột nghiêm trọng với cảnh sát tới can ngăn, kết quả là một lạt-ma bị chết, 13 người bị thương” (Mã Linh – Lý Minh - sđd. Kỳ 77, tr. 202-203). Thấy “cây gậy” khạc lửa không công hiệu, Trung Nam Hải cách chức Ngũ Tinh Hoa (điều về Ủy ban dân tộc nhà nước ở Bắc Kinh). Người thứ 7 đến Lhasa thay thế là Hồ Cẩm Đào – “quan văn” đầu tiên (so với 6 đại thần “quan võ” tiền nhiệm). Tuy vậy, các đợt xuống đường đòi độc lập vẫn không lắng xuống (xem Kỳ 82)…
Biến động lịch sử hiện đại của Tây Tạng (với đôi nét thời sự trên) về đại thể đã nằm trong tiên đoán của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 13 (cũng như các Đạt-lai Lạt-ma đời trước nữa) qua tiên tri ghi trong cổ thư, hoặc khắc trên đá. Lobsang Rampa khẳng định “tiên tri Tây Tạng là một khoa học vô cùng chính xác dựa qua sự giám sát của môn chiêm tinh” – bằng chứng:
1. Những tiên tri của Tây Tạng về thế kỷ 20 như: “Năm 1910: quân đội Trung Hoa xuất hiện ở Lhasa – Năm 1911: Trung Hoa có biến động (cách mạng Tân Hợi) – Năm 1914: Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Năm 1933: đức Đạt – lai Lạt – ma đời thứ 13 từ trần. Năm 1935: đức Đạt-lai Lạt-ma tái sinh”. Tất cả diễn ra đúng như thế. L. Rampa ghi nhận: sứ thần Anh quốc ở Lhasa là ngài Charles Bell tận mắt đọc những tiên tri đó và ghi vào tài liệu đặc biệt gởi về Bộ ngoại giao “đến nay vẫn còn được lưu trữ tại Thư viện hoàng gia Anh”(L. Rampa - sđd. Kỳ 80. tr. 93).
2. Tiên tri đời Đạt-lai Lạt-ma thứ 9 (Long-đa-gia-mục-thố 1805-1816) được khắc trên một tấm đá, rằng: 100 năm nữa người Anh sẽ mang quân đánh chiếm Tây Tạng (ghi cả năm xảy ra biến cố trên):
“Năm Mộc Long (1904) trong bốn tháng đầu, đức Đạt-lai Lạt-ma sẽ được bình yên nhưng sau đó quân xâm lăng sẽ kéo vào lãnh thổ. Địch quân rất đông, gây nhiều tai họa và dân chúng sẽ phải chịu nạn đao binh. Đến cuối năm sẽ có một cuộc hòa giải và chiến tranh sẽ chấm dứt”. Chính thiếu tướng Young Husband, tư lệnh quân đội Anh (ở Tây Tạng), cũng đã được coi bản văn này và ghi nhận trong cuốn hồi ký của ông.
“Khi cuốn sách này được xuất bản lần đầu, có người hỏi tôi: “Tại sao biết trước như thế mà lại không tránh đi, việc gì cam chịu như vậy?”. Tôi chỉ có thể nói rằng nếu người ta có thể tránh khỏi những điều đã tiên tri từ trước thì điều tiên tri đó đã sai” (L. Rampa - sđd. tr. 91).
Quả nhiên, quân đội Anh do tướng Young Husband chỉ huy tiến đánh Tây Tạng và thủ đô Lhasa thất thủ sau 6 tháng cầm cự vào mùa thu 1904. Sang mùa đông năm đó, để bảo vệ nền tự trị Tây Tạng, thân phụ của lạt-ma Lobsang Rampa (xem Kỳ 81) được ủy nhiệm của đức Đạt-lai Lạt-ma và hội đồng nội các điện Potala đã thương thuyết để ký với nước Anh hòa ước năm 1905 nhường 3 tỉnh phía tây của Tây Tạng cho Anh.
Do vậy hòa bình lập lại. Nhưng không bao lâu đến lượt Trung Hoa (nhà Thanh) trách Tây Tạng nhường đất cho Anh, lấy cớ Đạt-lai Lạt-ma có đường lối ngoại giao thân các nước Tây phương (tạo mối đe dọa an ninh đối với “thiên triều”) nên kéo quân xâm chiếm. Ngài Đạt-lai Lạt-ma (đời thứ 13) phải sang Ấn Độ tỵ nạn (1910). Năm sau, cách mạng Tân Hợi bùng nổ (1911), hoàng đế Phổ Nghi phải thoái vị (1912 – xem Kỳ 71 và 72), quân Trung Hoa rút khỏi Tây Tạng và Đạt-lai Lạt-ma về lại Lhasa, truyền Lobsang Rampa đến gặp ngài ở điện Potala theo một lối đi riêng. Ngài báo trước:
- Không lâu nữa, Tây Tạng lại sẽ phải đứng trước cuộc xâm lăng bằng vũ lực (của Mao Trạch Đông) từ bên ngoài vào…
Và thông báo phải sơ tán, chôn giấu ngay những bí mật quốc gia bao gồm các cổ thư cùng nhiều tài liệu của tiền nhân để lại, khóa kín cửa vào kho tàng vô giá của Tây Tạng trước khi kẻ địch hung hãn đặt chân đến Lhasa. Đạt-lai Lạt-ma (thứ 13) bảo Rampa: – Con là một người lãnh sứ mạng ra ngoại quốc để chuẩn bị cho đấng Đạt-lai Lạt-ma tương lai (thứ 14) sẽ phải lưu vong tại đó (L.Rampa – sđd. tr. 90). Rõ hơn nữa (lời sư phụ):
– Quân Trung Hoa sẽ xâm lăng xứ này, đến khi đó thì con đã sống ở ngoại quốc, còn ta sẽ không còn ở cõi đời này nữa (L. Rampa – sđd. tr.73).
Theo sứ mệnh được giao, lạt-ma Rampa sang Trung Quốc (lúc Mao Trạch Đông và đảng CSTQ đang sửa soạn bước vào Vạn lý trường chinh) thành lập đoàn Y sĩ du hành (Barefoot Doctor) để cứu trợ các nạn nhân chiến cuộc (thiện nguyện) để rồi “bị người Nhật nghi ngờ và tra tấn gần chết – được đưa về Anh điều trị và sau đó đã giảng dạy môn Đông y tại châu Âu” (L. Rampa – sđd. tr. 119). Tiếp đó, Rampa đi nhiều quốc gia trên thế giới và bùi ngùi nhìn lại đất nước Tây Tạng của mình, tự nhận xét (tóm lược):
Bề ngoài Tây Tạng không có nguồn lợi kinh tế nào đáng kể, vì mặt đất cằn cỗi toàn đá cứng, đồng ruộng núi đồi quanh năm tuyết phủ. Nhưng thực ra, trong lòng đất “Tây Tạng cũng có đủ những mỏ vàng, mỏ bạc và uranium”, nhiều không kể xiết “những tượng Phật đúc bằng vàng khối, những đĩa vàng, chén vàng, những xác ướp bọc vàng- tại xứ này vàng không phải là một kim loại hiếm quý – mà là một kim khí linh thiêng”. Người dân bao đời giữ niềm tin mỏ vàng mỏ bạc “là long mạch của quốc gia” nên nếu khai quật sẽ mang lại tai ương không lường trước được. Tài nguyên ẩn kín và vị trí chiến lược của Tây Tạng trên dãy Hymalaya thu hút “lòng tham không đáy” của các quốc gia quen lấy “sự chiếm đoạt tài sản của nước khác”làm tài sản của mình, đã nâng các cuộc xâm lược đẫm máu lên hàng quốc sách (L. Rampa – sđd. tr. 88). Trung Quốc đang khuấy động Hymalaya – Tây Tạng (tổ sơn) và khuấy nhiễu biển Đông (tổ long), sẽ phải gánh chịu hậu quả khủng khiếp ra sao? Mời bạn đọc theo dõi câu trả lời qua tài liệu đặc biệt Kỳ 84 của loạt bài này: “Tiên tri về tương lai Trung Quốc”
No comments:
Post a Comment