38 năm trước, Trung Quốc đã cưỡng chiếm trái phép Quần đảo Hoàng Sa như thế nào? Vào những ngày này 38 năm trước, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Tại thời điểm đó, Quân đội Việt Nam Cộng hòa đang làm chủ hợp pháp quần đảo Hoàng Sa nên đã ra sức chống trả, kết quả là 74 người lính VNCH đã vĩnh viễn nằm xuống để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng của Tổ Quốc. Hôm nay, có lẽ chúng ta cần dành riêng những giây phút để tưởng niệm 74 người lính VNCH, đã anh dũng hy sinh bảo vệ Hoàng Sa, và cũng không quên rằng, quần đảo này mặc dù hiện đang bị Trung Quốc chiếm giữ, nhưng đó là một phần lãnh thổ của Việt Nam. Để hiểu thêm những người lính VNCH đã chiến đấu giữ gìn biển, đảo ra sao, cũng như đã phải đối đầu với kẻ thù hung bạo như thế nào, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của những kẻ xâm lược, mô tả lại trận Hải chiến Hoàng Sa. Bài này được viết vào ngày 7 tháng 7 năm 1974, chỉ hơn 5 tháng sau khi trận chiến kết thúc, nên đã mô tả khá chi tiết về trận đánh này. Chúng tôi xin giữ nguyên văn các danh từ riêng mà phía Trung Quốc gọi tên các hòn đảo, với chú thích kèm theo ở cuối bài, cũng như nguyên văn những từ ngữ mà phía Trung Quốc đã sử dụng để mô tả trận chiến này, khi cho rằng họ chỉ là những kẻ “tự vệ”, thay vì những kẻ xâm lược.
—oOo—
Báo Trung Quốc mô tả trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974:
Hải chiến Tây Sa Trung – Việt
Ghi chép đầy đủ ngày 7-7-1974
Quốc Thanh dịch
Quốc Thanh dịch
Hải chiến Tây Sa là trận tác chiến phản kích tự vệ vào tháng 1 năm 1974, được tiến hành đối với quân đội Nam Việt (1) xâm nhập vùng biển quần đảo Vĩnh Lạc (2) thuộc Tây Sa (3), với sự phối hợp giữa Hạm đội Nam Hải của hải quân Trung Quốc cùng các phân đội lục quân và dân binh. Đây là một cuộc đấu tranh chính nghĩa bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc, đồng thời cũng là lần tác chiến hải quân đầu tiên với một nước khác của hải quân Trung Quốc kể từ sau năm 1949. Quy mô của trận hải chiến này tuy không lớn, nhưng lại có sức ảnh hưởng sâu rộng đến thế cục chiến lược của Trung Quốc ở Nam Hải, đủ để ghi vào sử sách mãi mãi. Hơn nữa, bản thân trận hải chiến này lại còn có thể được gọi là ky tích của lịch sử hải quân thế giới.
Quần đảo Tây Sa là một quần đảo lớn trong số 4 quần đảo lớn ở Nam Hải (4) của Trung Quốc, nằm ở vùng biển cách đảo Hải Nam khoảng 330 km về phía đông nam, được hợp thành từ 2 quần đảo Tuyên Đức (5) và Vĩnh Lạc cách nhau 42 hải lý, với tổng diện tích khoảng 10km2. Trong đó, đảo Vĩnh Hưng (6) có diện tích lớn nhất trong quần đảo Tuyên Đức, là đảo chính của Tây Sa. Quần đảo Tây Sa từ thời Hán Vũ Đế đã là lãnh thổ của Trung Quốc, các triều các đời đều đã khai thác kinh doanh, từ sau đời Tống đã từng điều các thủy sư đi tuần tra theo định kỳ.
Quần đảo Vĩnh Lạc gồm các đảo San Hô (7), Cam Tuyền (8), Kim Ngân (9), Thâm Hàng (10), Quảng Kim (11), Tấn Khanh (12), Toàn Phú (13), Áp Công (14) quây lại với nhau thành một bãi đá ngầm có hình vó ngựa, bãi đá ngầm này quây quanh một hồ đá ngầm có chu vi 100 km2.
Nhưng từ nửa sau thập kỷ 50, nhà cầm quyền Nam Việt bắt đầu thèm muốn 2 quần đảo lớn là quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa (15) trong số nhiều đảo ở Nam Hải của Trung Quốc. Bắt đầu từ ngày 26 tháng 5 năm 1956 đã ngang nhiên đưa ra yêu sách về lãnh thổ. Từ năm 1956 đến năm 1958 đã lần lượt xâm chiếm 4 đảo San Hô, Cam Tuyền, Thâm Hàng và Kim Ngân thuộc quần đảo Vĩnh Lạc, sau đó, ngoài việc tiếp tục chiếm cứ đảo San Hô ra còn lần lượt rút quân khỏi ba hòn đảo đã xâm chiếm còn lại.
Ngày 22 tháng 2 năm 1959, trợ chiến hạm HQ 225 của hải quân Nam Việt đã xâm nhập vào Tây Sa, sử dụng vũ lực để đánh đuổi 5 tàu cá Trung Quốc với 69 ngư dân. Để bảo vệ chủ quyền Tây Sa, chính phủ Trung Quốc quyết định cho Hạm đội Nam Hải của hải quân tổ chức các biên đội đi tuần tiễu ở Tây Sa. Ngày 17 tháng 3 năm 1959, chính ủy Viên Ý Phấn ở căn cứ Du Lâm, Hạm đội Nam Hải của Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và chi đội trưởng Vương Phát Minh chi đội 11 xuồng máy đã dẫn các tàu hộ tống 172, phiên hiệu Nam Ninh và tàu chống ngầm 153, phiên hiệu Lô Châu, lần đầu tiên tới tuần tra vùng biển Tuyên Đức thuộc Tây Sa.
Hoạt động tuần tra Tây Sa diễn ra cho đến khi thu hồi được quần đảo Vĩnh Lạc vào năm 1974 thì ngưng. Trong thời gian ấy,đã tiến hành tuần tra tổng cộng 77 lần, với 170 lượt tàu tham gia tuần tra, thông qua tuần tra Tây Sa để bảo vệ cá và bảo vệ đi lại, tiến hành trinh sát và cảnh cáo bước đầu. Đây là nhiệm vụ tuần tra ngoài khơi ở cự ly xa nhất cho hải quân Trung Quốc thừa hành khi ấy, đó là một lần thử thách gay gắt đối với hải quân Trung Quốc với những tàu thuyền được trang bị còn khá lạc hậu.
Sau khi đã ký kết “Hiệp định đình chiến Paris” tháng 1 năm 1973, chính phủ Nam Việt nhân lúc thế cục đánh trên bộ còn đang ổn định, đã tích cực triển khai hoạt động cưỡng chiếm các yếu điểm chiến lược ở Nam Hải. Bắt đầu từ tháng 8 năm 1973, quân hạm Nam Việt liên tục xua đuổi, va chạm và bắt bớ các ngư dân Trung Quốc ở vùng biển Tây Sa, sau khi xâm chiếm phi pháp 6 hòn đảo thuộc các quần đảo Nam Sa, Tây Sa của Trung Quốc, vào tháng 9 năm 1973, lại ngang nhiên tuyên bố là đã đưa 11 hòn đảo như Nam Uy (16), Thái Bình (17)… trong quần đảo Nam Sa của Trung Quốc vào diện quy hoạch quản lý của tỉnh Phước Tuy (18). Sau đó không lâu, hải quân Nam Việt lại càng táo tợn hơn khi tạo ra các rắc rối ở vùng biển Tây Sa, đâm hỏng các thuyền cá của Công ty Ngư nghiệp Nam Hải Trung Quốc đang đánh bắt cá ở vùng này, thậm chí còn bắt cả ngư dân Trung Quốc về cảng gác, tiến hành tra tấn bức cung, cưỡng bức họ phải thừa nhận quần đảo Tây Sa là lãnh thổ của Nam Việt.
Ngày 11 tháng 1 năm 1974, Bộ ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố, nhắc lại “Các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Trung Sa đều là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có chủ quyền không thể tranh cãi đối với những hòn đảo này”. Nhà cầm quyền Nam Việt không vì thế mà lui lại hành trình xâm lược của mình.
Vào 10 giờ ngày 15 tháng 1 năm 1974, tàu khu trục số 16 và tàu “Lý Thường Kiệt” của hải quân Nam Việt đã xâm nhập vào vùng biển quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc của Tây Sa, đồng thời vào 13 giờ 50 phút, đã bắn 10 phát đạn pháo vào căn cứ đánh bắt cá của ngư dân Trung Quốc ở đảo Cam Tuyền, ngang nhiên hủy hoại quốc kỳ Trung Quốc. Ngoài ra còn có ý đồ đổ bộ lên các tàu cá Nam Ngư số 402, số 407 của Công ty Thủy sản Bạch Mã Tỉnh của Quảng Đông đang sản xuất đánh bắt cá ở quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc khi ấy, các công nhân nghề cá của Trung Quốc đã đấu tranh trực diện với họ.
Báo cáo về việc quân đội Nam Việt tiến hành khiêu khích quân sự lập tức được đệ trình lên cấp quyết sách tối cao của Trung Quốc, Thủ tướng Quốc vụ viện Chu Ân Lai đã nghiên cứu đối sách cùng với Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương Diệp Kiếm Anh, sau khi trình lên và được sự đồng ý của Chủ tịch Mao Trạch Đông, đã quyết định tăng cường tuần tra và áp dụng các biện pháp quân sự tương ứng, để bảo vệ quần đảo Tây Sa. Đây là hành động quân sự cuối cùng mà Mao Trạch Đông đã ra quyết sách trong cuộc đời mình.
Vào 8 giờ sáng ngày 16 [tháng 1 năm 1974], tàu số 16 của Nam Việt đã điều 16 lính, đáp một xuồng máy xâm chiếm đảo Kim Ngân thuộc quần đảo Vĩnh Lạc của Tây Sa. 14 giờ, Bộ tổng tham mưu hạ lệnh cho Hạm đội Nam Hải lập tức điều 2 tàu chống ngầm đến chờ lệnh ở đảo Vĩnh Hưng. 19 giờ 37 phút, các tàu chống ngầm 271, 274 thuộc đại đội 73 tàu chống ngầm đã chở một trung đội bộ binh thuộc sư đoàn 131 lục quân cùng vật tư chuẩn bị chiến đấu trên 7 chiếc xe tải khởi hành từ căn cứ Du Lâm, đến đảo Vĩnh Hưng vào 10 giờ 30 phút ngày 17, thừa hành nhiệm vụ tuần tra lần thứ 77, đồng thời cũng là lần cuối cùng, đối với Tây Sa. Đảm nhận chỉ huy biên đội trên biển là Ngụy Minh Sâm, Phó tư lệnh căn cứ Du Lâm, sở chỉ huy trên biển đặt tại tàu số 271 thuộc đại đội 73 tàu chống ngầm.
Ngày 17 [tháng 1 năm 1974], quân Nam Việt lại điều tàu khu trục số 4 “Trần Khánh Dư” và tàu số 16 hợp cùng nhau. 14 giờ 20 phút, 2 tàu, mỗi tàu thả một chiếc xuồng máy, chở 27 lính xâm chiếm đảo Cam Tuyền, cưỡng bức trục xuất các công nhân nghề cá Trung Quốc đang phơi hải sâm trên biển. 15 giờ 15 phút, biên đội 271 đưa thêm một trung đội dân binh, thuộc Bộ vũ trang Tây Sa, thừa lệnh khởi hành tới quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc để bảo vệ cho các tàu cá Trung Quốc sản xuất được an toàn. 17 giờ 49 phút, đi vào quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc từ giữa các đảo Thâm Hàng và đảo Tấn Khanh, nhằm thẳng tới 2 tàu khu trục “Lý Thường Kiệt” và “Trần Khánh Dư” Nam Việt đang giương oai diễu võ, chặn tàu cá Trung Quốc ở gần đảo Cam Tuyền. Hai tàu chống ngầm số 271, 274 của ta lập tức phát tín hiệu cảnh báo tới đối phương, buộc họ cuối cùng phải chuyển hướng rời đi.
Đến đêm, 2 trung đội bộ binh và dân binh do biên đội hải quân chở đến đã đổ bộ lên 3 đảo phụ cận, xây dựng công sự, chuẩn bị cố thủ. Cho đến lúc này, trong số 8 hòn đảo chính của quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, Nam Việt đã chiếm cứ 3 đảo: San Hô, Cam Tuyền, Kim Ngân ở phía Tây, biên đội hải quân Nam Việt thả neo ở đảo San Hô; Trung Quốc chiếm 3 đảo: Thâm Hàng, Tấn Khanh, Quảng Kim ở phía đông, hải quân Trung Quốc cùng biên đội tàu cá thả neo ở đảo Tấn Khanh, hai bên tiếp tục cuộc đối đầu cách nhau 9 hải lý.
Ngày 18, với sự trợ giúp của tàu hải quân Trung Quốc, các ngư dân đang đánh bắt cá ở đảo Thâm Hàng tiếp tục giữ vững sản xuất, đồng thời giám sát chặt chẽ mọi hành động của địch. Ngày hôm đó, hải quân Nam Việt lại điều thêm tàu khu trục số 5 và tàu “Trần Bình Trọng” đến quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, 3 tàu khu trục Nam Việt tiến hành vây chặn các tàu cá Nam Ngư số 402 và 407 ở hồ đá ngầm, lần lượt đâm vào tàu cá Trung Quốc 8 lần, làm hỏng cửa sổ buồng lái tàu cá số 407, mưu đồ uy hiếp buộc tàu cá Trung Quốc phải rời khỏi vùng biển đang tác nghiệp. Hai tàu cá không hề sợ hãi, quần nhau với địch. Tàu hải quân Trung Quốc lại phát tín hiệu cảnh báo, tàu địch treo cờ tín hiệu “mất lái” để trốn tránh tội lỗi, rồi vội lẩn đi.
Những bước tiến triển thêm về tình thế ở Tây Sa đã được kịp thời truyền đến cấp quyết sách tối cao của Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc ý thức được cục diện nghiêm trọng ở Tây Sa, nên đã thành lập riêng một Nhóm lãnh đạo Tây Sa, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Hạm đội Nam Hải điều thêm các tàu chống ngầm số 281, 282 thuộc đại đội 74, tàu chống ngầm chạy đến chờ lệnh ở đảo Vĩnh Hưng. Biên đội 281 khẩn cấp khởi hành từ căn cứ Du Lâm vào 2 giờ 45 phút ngày 18 [tháng 1 năm 1974], đã đến đảo Vĩnh Hưng vào 12 giờ 20 phút. Các tàu số 396 và 389 đại đội 10 tàu rà bom mìn vận chuyển nước ngọt và thực phẩm cho Tây Sa đã khởi hành từ căn cứ Du Lâm lúc 7 giờ 35 phút ngày 18, 22 giờ 30 phút, cập bến thả neo ở đảo Tấn Khanh hội hợp với biên đội 271. Để phối hợp hành động với bộ đội trên tàu, 14 giờ 21 phút ngày 18, trung đoàn 22, sư đoàn 8 thuộc Hải Nam Airlines đã điều 2 máy bay bay đến vùng trời quần đảo Vĩnh Lạc thực thi tuần tra trinh sát. Quân khu Quảng Châu yêu cầu điều một bộ phận bộ binh sẵn sàng chuẩn bị chi viện. Quân khu Quảng Châu căn cứ theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương đã yêu cầu sở chỉ huy trên biển và các biên đội tàu sẵn sàng duy trì cảnh giới cao độ, đồng thời tiến hành đấu lý với Hải quân Nam Việt, nếu như chúng dám tấn công bất ngờ, thì cần lập tức phản kích tự vệ.
Phía quân Nam Việt cũng gấp gáp bố trí, 2 giờ 30 phút lại điều thêm pháo hạm hộ tống số 10 “Sóng dữ” (19) đuổi theo đến vùng biển quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, hợp cùng 3 tàu khu trục đã xâm nhập từ trước. Cho đến giờ phút này đã có tới 4 quân hạm Nam Việt xâm nhập vùng biển Vĩnh Lạc. Nhằm đối phó với kẻ thù, lúc 5 giờ ngày 19 tháng 1, Hạm đội Nam Hải đã chỉ thị cho biên đội trên biển chuẩn bị sẵn sàng tác chiến, kiên quyết đánh trả.
Xét về năng lực, 3 tàu khu trục và 1 pháo hạm của hải quân Nam Việt, lớn 1.770 tấn, nhỏ cũng tới 650 tấn, tổng trọng tải hơn 6.000 tấn, trên tàu trang bị tổng cộng 50 khẩu hỏa pháo cỡ từ 127 ly trở xuống. Còn 4 chiếc tàu của biên đội tàu hải quân Trung Quốc thì lớn nhất mới có 570 tấn, ít hơn chiếc nhỏ nhất của đối phương tới 80 tấn, nhỏ nhất chỉ có 300 tấn, tổng trọng tải chưa được 1.760 tấn, chưa bằng trọng tải chiếc tàu lớn nhất của đối phương. Ngoài ra, 4 chiếc tàu bên ta chỉ được trang bị có 16 khẩu hỏa pháo cỡ 85 ly trở xuống, trong đó phần lớn là những khẩu hỏa pháo hai nòng cỡ nhỏ, thực lực trang bị hết sức thảm hại.
Tương quan thực lực giữa hai bên đối trận thảm hại như vậy cũng thuộc loại hiếm gặp trong lịch sử hải quân thế giới. Khi ấy, hải quân Nam Việt tự đánh giá thực lực của mình thuộc top 10 hàng đầu thế giới, đồng thời nhận định máy bay chiến đấu của Trung Quốc không thể chi viện máy bay chiến đấu tầm ngắn như Tây Sa, nên cảm thấy vẫn có thể chiến đấu với Hạm đội Nam Hải có trang bị kém nhất của Hải quân Trung Quốc.
Nhưng tính cơ động, mật độ hỏa lực của quân hạm Nam Việt lại khá kém, rồi sĩ quan binh lính lại nhát gan sợ chết, đây là nhược điểm không có cách gì khắc phục nổi ở chúng. Còn hải quân Trung Quốc, mặc dù trang bị và sự chuẩn bị tác chiến khi ấy không bằng quân Nam Việt, nhưng lòng dũng cảm và sĩ khí của họ thì lại là nhất, cộng thêm với sự giàu kinh nghiệm tác chiến, lấy nhỏ đánh lớn ở eo biển Đài Loan từ nhiều năm nay, nên không hề tỏ ra khiếp nhược khi phải đối mặt với hải quân Nam Việt chiếm ưu thế áp đảo.
Hải quân Nam Việt xâm nhập quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, quyết tâm với ưu thế tàu to pháo lớn, ra tay một phát là xơi gọn các tàu tuần tra của hải quân Trung Quốc với trang bị ở hàng yếu thế, từ đó mà cưỡng chiếm được quần đảo Vĩnh Lạc. Sáng sớm ngày 19, hạm đội hải quân Nam Việt nhổ neo từ đảo San Hô, chạy hết tốc lực về phía biên đội hải quân Trung Quốc, dẫn đầu mở thế trận hải chiến. Hai tàu số 10 và số 16 tiến vào hồ đá ngầm, từ rạn san hô Linh Dương tiếp cận tới đảo Tấn Khanh rồi neo lại ở đó, nhằm thu hút binh lực của biên đội hải quân Trung Quốc; còn 2 tàu số 4 và số 5 thì từ đảo Kim Ngân ra ngoài khơi về phía nam chạy vòng quanh 2 đảo Thâm Hàng, Quảng Kim, chuẩn bị điều binh cưỡng chiếm các đảo Thâm Hàng, Quảng Kim… mà quân dân Trung Quốc đang đóng ở đó.
- 6 giờ 35 phút, biên đội hải quân Trung Quốc nhận ra mưu đồ của hạm đội Nam Việt, ngay lập tức phát tín hiệu cảnh báo chiến đấu, khẩn cấp nhổ neo. 4 tàu làm thành tung đội đơn chạy hết tốc lực về phía tây, vây hãm các tàu số 10, số 16 của Nam Việt ở mặt biển phía tây bắc đảo Quảng Kim, còn giữ lại biên đội 396 ở đằng sau để đối đầu tại đây, biên đội 271 từ đảo Tấn Khanh đi ra hồ đá ngầm, tiến đến vùng biển đông nam đảo Thâm Hàng, chi viện cho quân dân Trung Quốc đang đóng trên đảo.
- 7 giờ 40 phút ngày 19 tháng 1, tàu số 4 của Nam Việt điều 23 lính lên 2 chiếc xuồng cao su chạy về phía đảo Thâm Hàng, dân binh Trung Quốc đóng trên đảo bị quân Nam Việt đuổi khỏi đảo với sự chi viện của biên đội tàu hải quân.
- 7 giờ 49 phút, tàu số 5 của Nam Việt điều 21 lính lên 2 chiếc xuồng cao su đổ bộ lên đảo Quảng Kim, lính Nam Việt đổ bộ lên đảo Quảng Kim đã khiêu khích với dân binh Trung Quốc đang đóng trên đảo, khi cảnh báo không có hiệu lực, dân binh Trung Quốc đã quả cảm nổ súng, giết chết 1 tên địch, làm bị thương 3 tên, buộc quân lính Nam Việt phải rút lui, quay về tàu vào lúc 9 giờ 20 phút. Trong thời gian này, biên đội 271 chạy cắm vào giữa 2 tàu số 4, số 5 của Nam Việt, chỉ cách tàu Nam Việt khoảng 1 dây (20), dùng hỏa pháo nhằm bắn vào quân Nam Việt đổ bộ lên đảo, để chi viện cho dân binh đóng trên đảo. Còn quân hạm Nam Việt vì ở cự ly quá gần, hỏa pháo rơi vào góc chết, nên không thể bắn trả. Hai bên đối trận lúc này chĩa pháo vào nhau, tuốt lưỡi lê, muôn phần căng thẳng.
- 8 giờ 15 phút, tàu số 16 của Nam Việt bị biên đội 396 của hải quân Trung Quốc đánh chặn đã điều chỉnh hướng lái, xông thẳng vào tàu 389 của hải quân Trung Quốc, mưu đồ buộc tàu 389 phải chuyển hướng. Đây là một pha thử thách ý chí còn hơn cả gang thép, tàu 389 không hề khiếp sợ đối thủ có trọng tải lớn hơn mình gấp 4 lần, vẫn không hề giảm tốc lực mà cũng không chuyển hướng đứng đón đầu. Cuối cùng buộc tàu số 16 phải chuyển hướng, nhưng mũi tàu vẫn đâm vào tàu 389, khiến cho cột đài chỉ huy, lan can mạn trái và máy rà bom mìn của tàu 389 bị hỏng.
Sau hành động đổ bộ lên đảo bị thất bại, hải quân Nam Việt quyết định thay đổi chiến thuật, mưu toan tìm cách rút lui dễ dàng ra khỏi trận hải chiến. 10 giờ 20 phút, 4 chiếc quân hạm của hải quân Nam Việt cùng lúc chạy ra phía ngoài, sau khi đã chiếm cứ được vị trí chiến trận có lợi, đã triển khai đội hình chiến đấu xông lại. Biên đội tàu Trung Quốc cũng lái đủ mã lực nghênh đón quân hạm Nam Việt. Khi phía quân Trung Quốc chạy ngay vào góc chết của hỏa pháo cỡ lớn bên hạm đội Nam Việt, hạm đội Nam Việt cuối cùng đành bó tay.
- 10 giờ 22 phút, tàu số 5 là tàu đô đốc của hải quân Nam Việt truyền cờ lệnh, các tàu đồng loạt nổ đạn pháo về phía quân Trung Quốc, ngay khi lửa đạn nòng hỏa pháo bên quân Nam Việt vừa lóe lên, các pháo thủ bên quân Trung Quốc cũng ấn luôn nút điện, đạp cò, đạn pháo bên quân ta gần như đồng loạt ra khỏi nòng, trận hải chiến Tây Sa chính thức nổ ra bên trong và ngoài hồ đá ngầm!
Do phát đạn pháo đầu tiên của cả hai bên đều nổ trong tình trạng ngắm chuẩn ổn định, cho nên độ chuẩn xác của đạn pháo rất cao. Cả 8 chiến hạm của hai bên tham chiến đều bị bắn trúng, đều bị hỏng ở các mức độ khác nhau. Trong đó, tàu 274 của hải quân Trung Quốc bị bắn trúng vào đài chỉ huy, chính ủy Phùng Tùng Bá, phó tàu Chu Tích Thông hy sinh ngay trên đài chỉ huy.
Căn cứ theo tình hình trang bị và tư thế chiến đấu của hai bên địch – ta, sở chỉ huy biên đội đã quyết đoán, ra lệnh tiếp tục tiếp cận địch với tốc độ cao, dùng thủ pháp tiếp cận địch để tử chiến. Các tàu chống ngầm 271 và 274 tấn công các tàu số 4 và số 5 ở bên ngoài hồ đá ngầm; các tàu rà phá bom mìn 396 và 389 tấn công các tàu số 16 và số 10 ở bên trong hồ mặn.
Hải quân Nam Việt thấy thế liền có ý đồ nhanh chóng kéo giãn khoảng cách, để phát huy được hết uy lực của hỏa pháo tầm xa bên phía mình. Tuy tàu của hải quân Trung Quốc nhỏ, hỏa lực yếu, nhưng lại có ưu thế về tốc độ cao. Hai tàu liên tục thu hẹp khoảng cách – tàu hải quân Trung Quốc áp sát vào mạn tàu hải quân Nam Việt rất nhanh, ra lệnh rót như mưa một loạt đạn hỏa pháo cỡ nhỏ, tốc độ cực nhanh vào đó, trên mặt biển quần đảo Vĩnh Lạc dày đặc tiếng rú rít của đạn hỏa pháo và những tiếng nổ vang trời, khói lửa mù mịt, những cột nước bắn lên trời, vị thế làm chủ chiến trận của hải quân Nam Việt đã bị đánh hoàn toàn tan tác.
Mặc dù chịu sự nhiễu loạn và hủy hoại của cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, việc huấn luyện quân đội bị giảm bớt, trình độ chiến thuật và kỹ thuật bị hạ thấp, nhưng trong chiến đấu, các thủy thủ đã thể hiện lòng yêu nước cao độ, tinh thần trách nhiệm mạnh mẽ, sĩ khí hiên ngang, dũng cảm quật cường, không sợ hy sinh, người trước ngã người sau tiếp bước. Các tàu đều kiên quyết chấp hành mệnh lệnh, chủ động phối hợp chi viện lẫn nhau.
Các tàu hải quân Trung Quốc được lắp đặt cặp đôi hỏa pháo cỡ nhỏ 25, 37… ở đầu tàu và đuôi tàu, uy lực bắn trúng đích từng phát không lấy gì lớn lắm, bắn liên tục trúng đích với mười mấy phát mỗi giây lại là chuyện liều mạng, tàu Nam Việt giống như chú trâu già ương ngạnh bị từng đàn chó săn hung hãn vây đánh, uy thì mạnh nhưng ở thế đơn độc đáng thương, lực mạnh nhưng không còn nhanh nhạy, nên khó lòng thoát khỏi. Do khoảng cách giữa biên đội tàu phía quân Trung Quốc với quân Nam Việt quá gần, nên rất nhiều hỏa lực phía quân Nam Việt đều rót vào tàu của họ, các tàu bên quân Nam Việt đều bị chính họ bắn nhầm ở các mức độ khác nhau.
Cùng lúc đó, quân hạm Nam Việt cũng cố sức nổ súng bắn về phía quân Trung Quốc, pháo cỡ lớn bắn gần không được liền bắn vào các tàu Trung Quốc ở xa, để chi viện cho đồng bọn. Nhưng các tàu phía quân Trung Quốc vẫn tiếp tục tiếp cận quân dịch với tốc độ cao, phát huy ưu thế cự ly gần của tốc độ bắn pháo cỡ nhỏ, áp chế quân hạm Nam Việt. Còn các quân hạm Nam Việt thì lúc này do tốc độ bắn của pháo cỡ lớn chậm, lại cộng thêm tàu bên quân Trung Quốc nhỏ, mạn tàu chỉ cao có 2 mét, cự ly quá gần mà đi vào góc chết của tàu thì điều chỉnh rất khó, không phát huy nổi ưu thế hỏa lực, nên đã bị tàu phía quân Trung Quốc bắn như điên cuồng. Để thoát khỏi thế bị động, các quân hạm Nam Việt mưu toan kéo giãn khoảng cách, nhưng tàu bên quân Trung Quốc quyết truy kích không tha, tập trung hỏa lực hết về phía các tàu số 4 và số 6 của quân Nam Việt.
Theo phương án đã định, hỏa lực các tàu 271 và 274 bên quân Trung Quốc trong trận hải chiến chuyên rót đạn nhằm đến hệ thống chủ pháo, điều khiển hỏa lực, thông tin và chỉ huy tàu số 4 (nguyên là tàu chỉ huy của Nam Việt, nhưng sáng sớm ngày hôm đó tạm thời biến thành tàu số 5) của Nam Việt, tàu này bị đánh làm thông tin bị cắt đứt, chỉ huy mất hiệu lực rất nhanh, trên đài chỉ huy bốc khói mù mịt. Tàu số 4 thấy thế bất lợi, đã vội vàng tháo chạy về hướng đông nam, kéo theo làn khói cuồn cuộn.
Tàu số 274 của quân ta vội truy đuổi theo để khỏi làm mất lợi thế chiến đấu. Lúc này, tàu số 5 của Nam Việt từ phía bên trái tiến hành đánh chặn tàu 274 của ta. Trong thế ngàn cân treo sợi tóc, bánh lái điện của tàu 274 đột nhiên phát sinh sự cố, lúc này nếu không thể điều khiển được nữa, thì chắc chắn sẽ bị đâm vào chính giữa 2 tàu địch, rơi vào thế bị động, thọ địch đằng sau lưng. Lý Phúc Tường, thuyền trưởng tàu 274, một mặt bình tĩnh ra lệnh chuyển sang lái bằng sức người để đổi hướng, đồng thời chỉ huy tổ lái chính chuyển từ dùng hết tốc lực chạy lên trước, sang dùng hết tốc lực ngoặt chuyển hướng, cuối cùng đã chiếm lại được vị trí lợi thế.
Song, tàu 274 tuy phát huy được ưu thế của mình ở mức tối đa khi cận chiến, nhưng sự mạo hiểm gặp phải khi cận chiến cũng tương đối lớn. Tổng cộng bị bắn trúng 5 phát đạn pháo 127 ly, hơn 10 phát 76 và 40 ly, đường dây thông tin trên tàu bị bắn hỏng hoàn toàn, chỉ huy bị gián đoạn. Các chỉ huy gặp nguy không hoảng hốt, đã điềm tĩnh dùng khẩu lệnh và tay ngoan cường chỉ huy tác chiến, vẫn tiếp cận tàu số 5 của địch hết tốc lực, bắn từ 1000m đến 300m, đạn pháo hung hãn rót như mưa lên tàu địch, khiến cho tàu số 5 của Nam Việt bị trúng đạn nhiều chỗ, chủ pháo bị câm tịt, viên thượng tá chỉ huy hải quân Nam Việt bị bắn trọng thương, mấy tên lính Nam Việt trên boong tàu và lá quân kỳ trên cột buồm cũng bị hỏa pháo quét rơi xuống biển.
Cùng lúc đó, các tàu 396 và 389 cũng áp sát tàu số 16 của Nam Việt, tiến hành tập trung bắn gần, khiến cho tàu này bị trúng đạn bốc cháy rất nhanh, kéo theo khói, hoảng hốt tháo chạy.
Tàu số 10 của hải quân Nam Việt tới giải vây cho tàu số 16, thừa cơ đánh trộm các tàu 389 và 396. Các tàu 389 và 396 lập tức chuyển hướng hỏa pháo, đồng loạt bắn gấp vào tàu số 10, cả băng đạn pháo bắn sang mặt cabin tàu, khoang đạn dược bị bắn trúng rất nhanh, tàu số 10 lật nghiêng rồi nổ bốc cháy trong nháy mắt. Để làm cho tàu “Sóng dữ” bị trọng thương không thể chạy thoát, tàu 389 tiếp tục áp sát không tha, bắn dữ dội về phía đó.
Một điều đáng nói là, tàu 389 là con tàu cũ kỹ từ hồi thập kỷ 50 của hải quân Trung Quốc, khi tiếp nhận mệnh lệnh là lúc mới sửa chữa xong trong xưởng 1 năm, lấy về được 3 ngày, thậm chí còn chưa kịp chạy thử, bắn hỏa pháo thử thì đã phải chạy suốt ngày đêm đến Tây Sa tham gia trận hải chiến. Trải qua một trận kịch chiến khủng khiếp, tuy tàu “Sóng dữ” của Nam Việt bị thương tháo chạy, nhưng tàu 389 thực tế cũng phải mang theo thương tích mà truy kích. Đài chỉ huy của tàu 389 khi ấy đã bị hỏa pháo địch bắn hỏng, số người thương vong rất lớn. Nhưng sĩ quan binh lính cả tàu cùng chung chí căm thù địch, coi thường cái chết, đã giữ vững vị trí chiến đấu, dũng cảm tác chiến.
Khi tàu 389 đang truy kích, do bánh lái bị hỏng, tốc độ quá nhanh, nên đã đâm thẳng vào giữa 2 tàu của quân Nam Việt, chịu sự tấn công của hỏa lực chằng chịt. Còn tàu 396 ở phía sau thì sợ bắn nhầm bị thương tàu mình nên đã không dám chi viện. Một phát đạn pháo bắn vào giữa hai máy chính của tàu 389, trong khoang phát nổ bốc cháy, lan ra xung quanh rất nhanh. Sĩ quan binh lính trên tàu một mặt kiên trì chiến đấu, mặt khác tổ chức cho mọi người cố sức dập lửa. Cuối cùng đã kịp thời dập được lửa, bảo vệ được con tàu. Để cứu chữa động cơ bị bắn hỏng, 5 chiến sĩ trong khoang máy phụ, trong khói lửa mịt mù, đã kiên trì chiến đấu ở tình trạng thiếu oxy nghiêm trọng, cuối cùng tất cả đều dũng cảm hy sinh.
Hỏa pháo của hai bên lúc này đều không thể điều ra được, Tiêu Đức Vạn, thuyền trưởng tàu 389 đã tùy cơ ứng biến: Ném lựu đạn! Khi ấy trên tàu 389 chở tới mấy hòm lựu đạn chuyển cho dân binh đóng trên đảo, do đêm 18 có sóng gió quá lớn nên không đưa lên đảo được, đến lúc này lại phải điều ra để dùng. Thế là các thủy thủ Trung Quốc vội ba chân bốn cẳng ném từng chùm lựu đạn sang tàu số 10 của Nam Việt, nhiều người ôm cả súng tiểu liên bắn quét ngang vả mặt boong tàu số 10 của Nam Việt, thậm chí còn bồng cả tên lửa chống tăng nhằm vào mọi vị trí chiến đấu trên tàu địch mà bắn! (Đây chính là xuất xứ của dòng tin “quân Trung cộng sử dụng cả lựu đạn” mà Nam Việt đã cung cấp cho báo chí quốc tế sau đó). Ở lần tác chiến áp sát mạn tàu hiếm hoi trong trận hải chiến hiện đại này, thuyền trưởng tàu số 10 của Nam Việt đã bị bắn chết ngay tại trận (21).
Nhân lúc kẻ địch đang hoảng hồn chuyển hướng, tàu 389 ngoặc hết tốc lực, đuổi theo tấn công quân Nam Việt, tàu 389 đã bị trọng thương, 3 khoang bị nước vào, thân tàu bị nghiêng, tốc độ lái cũng chậm hẳn lại, nên đành lao vào bãi san hô tự cứu. Lúc này nước biển từ đằng sau khoang đạn chảy vào khoang máy chính, máy chính đang vận hành với tốc độ cao bị đe dọa nghiêm trọng. Quách Ngọc Đông và Quách Thuận Phục trên mình đang bị thương nặng đã kiên trì bít chặt khoang đạn để bảo vệ cho máy chính được vận hành bình thường, cả hai người đều đã hy sinh tại vị trí chiến đấu ở tư thế đang bít khoang đạn.
- 10 giờ 42 phút, tàu số 16 của Nam Việt luôn ở vị trí quan sát bên ngoài, cho rằng thời cơ đã đến, liền lập tức ngoặc đầu tàu, hướng tới đánh tàu 389. Đạn pháo trên tàu 389 đã bắn hết sạch, trưởng tàu Tiêu Đức Vạn thấy thế, lập tức ra lệnh lắp bom chống ngầm, rất có thể sẽ gây sát thương cả chính mình, nhưng trong trận hải chiến sống mái này, ngoài phương án này ra đã không còn lựa chọn nào khác, khi tàu 389 đã lắp xong bom chống ngầm đang chuẩn bị bắn, tàu 396 vừa kịp đuổi tới chi viện, yểm hộ cho tàu 386 rút khỏi trận chiến. Tàu số 16 sợ lại bị đánh đau nên đã vội vàng tháo chạy ra ngoài khơi. Khoang động cơ đằng trước của tàu số 16 chìm dưới nước, bị trúng phải 1 phát đạn pháo 127 ly của tàu số 5 (may mà quả đạn pháo này không nổ, nếu không thì quân Nam Việt đã tự đánh chìm 1 tàu của mình trước), sau đó lại bị các tàu 389 và 396 của phía Trung Quốc tấn công, lúc này cả hệ thống thông tin, điều khiển, cung cấp điện của tàu ấy đều đã mất, tàu bị nghiêng lệch 20º, khi về đến quân cảng Nam Việt sau đó đã bị nghiêng lệch đến 40º, chỉ còn mỗi một máy chính là còn vận hành.
Tình trạng của các tàu Trung Quốc lúc này cũng không hay: Tàu 389 bị cháy to, chưa tắt, thân tàu nghiêng lệch nặng, buộc phải lao lên bãi cạn với sự hiệp trợ của tàu cá bên quân ta để khỏi bị chìm. Ba tàu còn lại cũng bị tổn thương ở các mức độ khác nhau, hơn nữa số đạn còn lại cũng không nhiều.
- 11 giờ 20 phút, rađa của hạm đội hải quân Nam Việt phát hiện thấy hạm đội chi viện của hải quân Trung Quốc. Đây là 2 tàu 281 và 282 thuộc đại đội 74 tàu chống ngầm do Lưu Hỷ Trung chỉ huy. Để có thể đến vùng chiến địa được sớm, 2 tàu này đã vượt qua sóng gió, chạy gấp với tốc độ đối đa 34, cao hơn so với thiết kế tàu, cuối cùng đã đến kịp, khiến cho cán cân thắng lợi của trận hải chiến Tây Sa cuối cùng đã nghiêng về phía quân Trung Quốc.
Các tàu Nam Việt tự biết không thể thắng được, nên đã lần lượt quay đầu tháo chạy, tản mát về phía tây bắc và phía đông nam, còn tàu số 10 do bị thương quá nặng, nên đã bị bỏ mặc mãi tít tận đằng sau. Nghe nói giữa đường chúng từng yêu cầu hải quân Mỹ can thiệp, đồng thời cứu viện các binh lính trên tàu số 10, nhưng đã bị quân Mỹ từ chối.
Từ lúc tàu Nam Việt nổ súng cho đến khi hạm đội của chúng bị đánh tan tác, chỉ vẻn vẹn trong vòng 58 phút. Sau trận chiến, hải quân Nam Việt kiểm lại, ngoại trừ tàu số 10 bị đánh chìm, tàu số 16 bị trúng 820 phát đạn, các tàu số 4, số 5 đều bị trúng cả trên ngàn phát đạn, có thể thấy được độ ác liệt của tình hình chiến sự cùng lòng dũng cảm trong tác chiến của hải quân Trung Quốc khi ấy.
- 11 giờ 30 phút, biên đội 281 chạy tới chỗ cách đảo Thâm Hàng 6,4 hải lý về phía đông, lúc này, sở chỉ huy biên đội tàu hải quân Trung Quốc lập tức ra lệnh cho các tàu 281 và tàu 282 quyết không để cho tàu số 10 của Nam Việt tháo chạy.
- 11 giờ 49 phút, các tàu chống ngầm 281 và 282, từ phía đông đảo Thâm Hàng, đi vào hồ đá ngầm, lập tức lao tới truy diệt tàu số 10 của địch. 12 giờ 12 phút, 2 tàu chuyển hướng nổ súng từ vị trí 1200 m, cả 16 khẩu pháo đồng loạt nhả đạn. Loạt đầu tiên bắn hỏng buồng lái của tàu địch, loạt thứ hai tập trung bắn vào bộ phận trung tâm chìm dưới nước, trong 4 phút bắn tới 1.766 phát đạn pháo, khoang dầu tàu số 10 của địch bốc cháy, kho đạn lập tức nổ tung. 12 giờ 30 phút, tàu 281 ngừng bắn. 14 giờ 52 phút, tàu số 10 bị nổ và chìm ở cách bãi đá ngầm Linh Dương 2,5 hải lý về phía nam.
Khi ấy, biên đội hải quân Trung Quốc bận rộn tổ chức hạm đội phòng không và tàu 389 cứu hộ cứu nạn, không tổ chức lực lượng cứu vớt tù binh. Bốn, năm ngày sau, một chiếc tàu dầu của Đan Mạch đã cứu được 23 lính Nam Việt đang trôi giạt trên biển, 60 thuyền viên còn lại trên tàu “Sóng dữ” của Nam Việt đã bị mất xác trong sóng dữ của Nam Hải.
Quần đảo Tây Sa là một quần đảo lớn trong số 4 quần đảo lớn ở Nam Hải (4) của Trung Quốc, nằm ở vùng biển cách đảo Hải Nam khoảng 330 km về phía đông nam, được hợp thành từ 2 quần đảo Tuyên Đức (5) và Vĩnh Lạc cách nhau 42 hải lý, với tổng diện tích khoảng 10km2. Trong đó, đảo Vĩnh Hưng (6) có diện tích lớn nhất trong quần đảo Tuyên Đức, là đảo chính của Tây Sa. Quần đảo Tây Sa từ thời Hán Vũ Đế đã là lãnh thổ của Trung Quốc, các triều các đời đều đã khai thác kinh doanh, từ sau đời Tống đã từng điều các thủy sư đi tuần tra theo định kỳ.
Quần đảo Vĩnh Lạc gồm các đảo San Hô (7), Cam Tuyền (8), Kim Ngân (9), Thâm Hàng (10), Quảng Kim (11), Tấn Khanh (12), Toàn Phú (13), Áp Công (14) quây lại với nhau thành một bãi đá ngầm có hình vó ngựa, bãi đá ngầm này quây quanh một hồ đá ngầm có chu vi 100 km2.
Nhưng từ nửa sau thập kỷ 50, nhà cầm quyền Nam Việt bắt đầu thèm muốn 2 quần đảo lớn là quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa (15) trong số nhiều đảo ở Nam Hải của Trung Quốc. Bắt đầu từ ngày 26 tháng 5 năm 1956 đã ngang nhiên đưa ra yêu sách về lãnh thổ. Từ năm 1956 đến năm 1958 đã lần lượt xâm chiếm 4 đảo San Hô, Cam Tuyền, Thâm Hàng và Kim Ngân thuộc quần đảo Vĩnh Lạc, sau đó, ngoài việc tiếp tục chiếm cứ đảo San Hô ra còn lần lượt rút quân khỏi ba hòn đảo đã xâm chiếm còn lại.
Ngày 22 tháng 2 năm 1959, trợ chiến hạm HQ 225 của hải quân Nam Việt đã xâm nhập vào Tây Sa, sử dụng vũ lực để đánh đuổi 5 tàu cá Trung Quốc với 69 ngư dân. Để bảo vệ chủ quyền Tây Sa, chính phủ Trung Quốc quyết định cho Hạm đội Nam Hải của hải quân tổ chức các biên đội đi tuần tiễu ở Tây Sa. Ngày 17 tháng 3 năm 1959, chính ủy Viên Ý Phấn ở căn cứ Du Lâm, Hạm đội Nam Hải của Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và chi đội trưởng Vương Phát Minh chi đội 11 xuồng máy đã dẫn các tàu hộ tống 172, phiên hiệu Nam Ninh và tàu chống ngầm 153, phiên hiệu Lô Châu, lần đầu tiên tới tuần tra vùng biển Tuyên Đức thuộc Tây Sa.
Hoạt động tuần tra Tây Sa diễn ra cho đến khi thu hồi được quần đảo Vĩnh Lạc vào năm 1974 thì ngưng. Trong thời gian ấy,đã tiến hành tuần tra tổng cộng 77 lần, với 170 lượt tàu tham gia tuần tra, thông qua tuần tra Tây Sa để bảo vệ cá và bảo vệ đi lại, tiến hành trinh sát và cảnh cáo bước đầu. Đây là nhiệm vụ tuần tra ngoài khơi ở cự ly xa nhất cho hải quân Trung Quốc thừa hành khi ấy, đó là một lần thử thách gay gắt đối với hải quân Trung Quốc với những tàu thuyền được trang bị còn khá lạc hậu.
Sau khi đã ký kết “Hiệp định đình chiến Paris” tháng 1 năm 1973, chính phủ Nam Việt nhân lúc thế cục đánh trên bộ còn đang ổn định, đã tích cực triển khai hoạt động cưỡng chiếm các yếu điểm chiến lược ở Nam Hải. Bắt đầu từ tháng 8 năm 1973, quân hạm Nam Việt liên tục xua đuổi, va chạm và bắt bớ các ngư dân Trung Quốc ở vùng biển Tây Sa, sau khi xâm chiếm phi pháp 6 hòn đảo thuộc các quần đảo Nam Sa, Tây Sa của Trung Quốc, vào tháng 9 năm 1973, lại ngang nhiên tuyên bố là đã đưa 11 hòn đảo như Nam Uy (16), Thái Bình (17)… trong quần đảo Nam Sa của Trung Quốc vào diện quy hoạch quản lý của tỉnh Phước Tuy (18). Sau đó không lâu, hải quân Nam Việt lại càng táo tợn hơn khi tạo ra các rắc rối ở vùng biển Tây Sa, đâm hỏng các thuyền cá của Công ty Ngư nghiệp Nam Hải Trung Quốc đang đánh bắt cá ở vùng này, thậm chí còn bắt cả ngư dân Trung Quốc về cảng gác, tiến hành tra tấn bức cung, cưỡng bức họ phải thừa nhận quần đảo Tây Sa là lãnh thổ của Nam Việt.
Ngày 11 tháng 1 năm 1974, Bộ ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố, nhắc lại “Các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Trung Sa đều là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có chủ quyền không thể tranh cãi đối với những hòn đảo này”. Nhà cầm quyền Nam Việt không vì thế mà lui lại hành trình xâm lược của mình.
Vào 10 giờ ngày 15 tháng 1 năm 1974, tàu khu trục số 16 và tàu “Lý Thường Kiệt” của hải quân Nam Việt đã xâm nhập vào vùng biển quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc của Tây Sa, đồng thời vào 13 giờ 50 phút, đã bắn 10 phát đạn pháo vào căn cứ đánh bắt cá của ngư dân Trung Quốc ở đảo Cam Tuyền, ngang nhiên hủy hoại quốc kỳ Trung Quốc. Ngoài ra còn có ý đồ đổ bộ lên các tàu cá Nam Ngư số 402, số 407 của Công ty Thủy sản Bạch Mã Tỉnh của Quảng Đông đang sản xuất đánh bắt cá ở quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc khi ấy, các công nhân nghề cá của Trung Quốc đã đấu tranh trực diện với họ.
Báo cáo về việc quân đội Nam Việt tiến hành khiêu khích quân sự lập tức được đệ trình lên cấp quyết sách tối cao của Trung Quốc, Thủ tướng Quốc vụ viện Chu Ân Lai đã nghiên cứu đối sách cùng với Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương Diệp Kiếm Anh, sau khi trình lên và được sự đồng ý của Chủ tịch Mao Trạch Đông, đã quyết định tăng cường tuần tra và áp dụng các biện pháp quân sự tương ứng, để bảo vệ quần đảo Tây Sa. Đây là hành động quân sự cuối cùng mà Mao Trạch Đông đã ra quyết sách trong cuộc đời mình.
Vào 8 giờ sáng ngày 16 [tháng 1 năm 1974], tàu số 16 của Nam Việt đã điều 16 lính, đáp một xuồng máy xâm chiếm đảo Kim Ngân thuộc quần đảo Vĩnh Lạc của Tây Sa. 14 giờ, Bộ tổng tham mưu hạ lệnh cho Hạm đội Nam Hải lập tức điều 2 tàu chống ngầm đến chờ lệnh ở đảo Vĩnh Hưng. 19 giờ 37 phút, các tàu chống ngầm 271, 274 thuộc đại đội 73 tàu chống ngầm đã chở một trung đội bộ binh thuộc sư đoàn 131 lục quân cùng vật tư chuẩn bị chiến đấu trên 7 chiếc xe tải khởi hành từ căn cứ Du Lâm, đến đảo Vĩnh Hưng vào 10 giờ 30 phút ngày 17, thừa hành nhiệm vụ tuần tra lần thứ 77, đồng thời cũng là lần cuối cùng, đối với Tây Sa. Đảm nhận chỉ huy biên đội trên biển là Ngụy Minh Sâm, Phó tư lệnh căn cứ Du Lâm, sở chỉ huy trên biển đặt tại tàu số 271 thuộc đại đội 73 tàu chống ngầm.
Ngày 17 [tháng 1 năm 1974], quân Nam Việt lại điều tàu khu trục số 4 “Trần Khánh Dư” và tàu số 16 hợp cùng nhau. 14 giờ 20 phút, 2 tàu, mỗi tàu thả một chiếc xuồng máy, chở 27 lính xâm chiếm đảo Cam Tuyền, cưỡng bức trục xuất các công nhân nghề cá Trung Quốc đang phơi hải sâm trên biển. 15 giờ 15 phút, biên đội 271 đưa thêm một trung đội dân binh, thuộc Bộ vũ trang Tây Sa, thừa lệnh khởi hành tới quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc để bảo vệ cho các tàu cá Trung Quốc sản xuất được an toàn. 17 giờ 49 phút, đi vào quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc từ giữa các đảo Thâm Hàng và đảo Tấn Khanh, nhằm thẳng tới 2 tàu khu trục “Lý Thường Kiệt” và “Trần Khánh Dư” Nam Việt đang giương oai diễu võ, chặn tàu cá Trung Quốc ở gần đảo Cam Tuyền. Hai tàu chống ngầm số 271, 274 của ta lập tức phát tín hiệu cảnh báo tới đối phương, buộc họ cuối cùng phải chuyển hướng rời đi.
Đến đêm, 2 trung đội bộ binh và dân binh do biên đội hải quân chở đến đã đổ bộ lên 3 đảo phụ cận, xây dựng công sự, chuẩn bị cố thủ. Cho đến lúc này, trong số 8 hòn đảo chính của quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, Nam Việt đã chiếm cứ 3 đảo: San Hô, Cam Tuyền, Kim Ngân ở phía Tây, biên đội hải quân Nam Việt thả neo ở đảo San Hô; Trung Quốc chiếm 3 đảo: Thâm Hàng, Tấn Khanh, Quảng Kim ở phía đông, hải quân Trung Quốc cùng biên đội tàu cá thả neo ở đảo Tấn Khanh, hai bên tiếp tục cuộc đối đầu cách nhau 9 hải lý.
Ngày 18, với sự trợ giúp của tàu hải quân Trung Quốc, các ngư dân đang đánh bắt cá ở đảo Thâm Hàng tiếp tục giữ vững sản xuất, đồng thời giám sát chặt chẽ mọi hành động của địch. Ngày hôm đó, hải quân Nam Việt lại điều thêm tàu khu trục số 5 và tàu “Trần Bình Trọng” đến quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, 3 tàu khu trục Nam Việt tiến hành vây chặn các tàu cá Nam Ngư số 402 và 407 ở hồ đá ngầm, lần lượt đâm vào tàu cá Trung Quốc 8 lần, làm hỏng cửa sổ buồng lái tàu cá số 407, mưu đồ uy hiếp buộc tàu cá Trung Quốc phải rời khỏi vùng biển đang tác nghiệp. Hai tàu cá không hề sợ hãi, quần nhau với địch. Tàu hải quân Trung Quốc lại phát tín hiệu cảnh báo, tàu địch treo cờ tín hiệu “mất lái” để trốn tránh tội lỗi, rồi vội lẩn đi.
Những bước tiến triển thêm về tình thế ở Tây Sa đã được kịp thời truyền đến cấp quyết sách tối cao của Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc ý thức được cục diện nghiêm trọng ở Tây Sa, nên đã thành lập riêng một Nhóm lãnh đạo Tây Sa, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Hạm đội Nam Hải điều thêm các tàu chống ngầm số 281, 282 thuộc đại đội 74, tàu chống ngầm chạy đến chờ lệnh ở đảo Vĩnh Hưng. Biên đội 281 khẩn cấp khởi hành từ căn cứ Du Lâm vào 2 giờ 45 phút ngày 18 [tháng 1 năm 1974], đã đến đảo Vĩnh Hưng vào 12 giờ 20 phút. Các tàu số 396 và 389 đại đội 10 tàu rà bom mìn vận chuyển nước ngọt và thực phẩm cho Tây Sa đã khởi hành từ căn cứ Du Lâm lúc 7 giờ 35 phút ngày 18, 22 giờ 30 phút, cập bến thả neo ở đảo Tấn Khanh hội hợp với biên đội 271. Để phối hợp hành động với bộ đội trên tàu, 14 giờ 21 phút ngày 18, trung đoàn 22, sư đoàn 8 thuộc Hải Nam Airlines đã điều 2 máy bay bay đến vùng trời quần đảo Vĩnh Lạc thực thi tuần tra trinh sát. Quân khu Quảng Châu yêu cầu điều một bộ phận bộ binh sẵn sàng chuẩn bị chi viện. Quân khu Quảng Châu căn cứ theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương đã yêu cầu sở chỉ huy trên biển và các biên đội tàu sẵn sàng duy trì cảnh giới cao độ, đồng thời tiến hành đấu lý với Hải quân Nam Việt, nếu như chúng dám tấn công bất ngờ, thì cần lập tức phản kích tự vệ.
Phía quân Nam Việt cũng gấp gáp bố trí, 2 giờ 30 phút lại điều thêm pháo hạm hộ tống số 10 “Sóng dữ” (19) đuổi theo đến vùng biển quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, hợp cùng 3 tàu khu trục đã xâm nhập từ trước. Cho đến giờ phút này đã có tới 4 quân hạm Nam Việt xâm nhập vùng biển Vĩnh Lạc. Nhằm đối phó với kẻ thù, lúc 5 giờ ngày 19 tháng 1, Hạm đội Nam Hải đã chỉ thị cho biên đội trên biển chuẩn bị sẵn sàng tác chiến, kiên quyết đánh trả.
Xét về năng lực, 3 tàu khu trục và 1 pháo hạm của hải quân Nam Việt, lớn 1.770 tấn, nhỏ cũng tới 650 tấn, tổng trọng tải hơn 6.000 tấn, trên tàu trang bị tổng cộng 50 khẩu hỏa pháo cỡ từ 127 ly trở xuống. Còn 4 chiếc tàu của biên đội tàu hải quân Trung Quốc thì lớn nhất mới có 570 tấn, ít hơn chiếc nhỏ nhất của đối phương tới 80 tấn, nhỏ nhất chỉ có 300 tấn, tổng trọng tải chưa được 1.760 tấn, chưa bằng trọng tải chiếc tàu lớn nhất của đối phương. Ngoài ra, 4 chiếc tàu bên ta chỉ được trang bị có 16 khẩu hỏa pháo cỡ 85 ly trở xuống, trong đó phần lớn là những khẩu hỏa pháo hai nòng cỡ nhỏ, thực lực trang bị hết sức thảm hại.
Tương quan thực lực giữa hai bên đối trận thảm hại như vậy cũng thuộc loại hiếm gặp trong lịch sử hải quân thế giới. Khi ấy, hải quân Nam Việt tự đánh giá thực lực của mình thuộc top 10 hàng đầu thế giới, đồng thời nhận định máy bay chiến đấu của Trung Quốc không thể chi viện máy bay chiến đấu tầm ngắn như Tây Sa, nên cảm thấy vẫn có thể chiến đấu với Hạm đội Nam Hải có trang bị kém nhất của Hải quân Trung Quốc.
Nhưng tính cơ động, mật độ hỏa lực của quân hạm Nam Việt lại khá kém, rồi sĩ quan binh lính lại nhát gan sợ chết, đây là nhược điểm không có cách gì khắc phục nổi ở chúng. Còn hải quân Trung Quốc, mặc dù trang bị và sự chuẩn bị tác chiến khi ấy không bằng quân Nam Việt, nhưng lòng dũng cảm và sĩ khí của họ thì lại là nhất, cộng thêm với sự giàu kinh nghiệm tác chiến, lấy nhỏ đánh lớn ở eo biển Đài Loan từ nhiều năm nay, nên không hề tỏ ra khiếp nhược khi phải đối mặt với hải quân Nam Việt chiếm ưu thế áp đảo.
Hải quân Nam Việt xâm nhập quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, quyết tâm với ưu thế tàu to pháo lớn, ra tay một phát là xơi gọn các tàu tuần tra của hải quân Trung Quốc với trang bị ở hàng yếu thế, từ đó mà cưỡng chiếm được quần đảo Vĩnh Lạc. Sáng sớm ngày 19, hạm đội hải quân Nam Việt nhổ neo từ đảo San Hô, chạy hết tốc lực về phía biên đội hải quân Trung Quốc, dẫn đầu mở thế trận hải chiến. Hai tàu số 10 và số 16 tiến vào hồ đá ngầm, từ rạn san hô Linh Dương tiếp cận tới đảo Tấn Khanh rồi neo lại ở đó, nhằm thu hút binh lực của biên đội hải quân Trung Quốc; còn 2 tàu số 4 và số 5 thì từ đảo Kim Ngân ra ngoài khơi về phía nam chạy vòng quanh 2 đảo Thâm Hàng, Quảng Kim, chuẩn bị điều binh cưỡng chiếm các đảo Thâm Hàng, Quảng Kim… mà quân dân Trung Quốc đang đóng ở đó.
- 6 giờ 35 phút, biên đội hải quân Trung Quốc nhận ra mưu đồ của hạm đội Nam Việt, ngay lập tức phát tín hiệu cảnh báo chiến đấu, khẩn cấp nhổ neo. 4 tàu làm thành tung đội đơn chạy hết tốc lực về phía tây, vây hãm các tàu số 10, số 16 của Nam Việt ở mặt biển phía tây bắc đảo Quảng Kim, còn giữ lại biên đội 396 ở đằng sau để đối đầu tại đây, biên đội 271 từ đảo Tấn Khanh đi ra hồ đá ngầm, tiến đến vùng biển đông nam đảo Thâm Hàng, chi viện cho quân dân Trung Quốc đang đóng trên đảo.
- 7 giờ 40 phút ngày 19 tháng 1, tàu số 4 của Nam Việt điều 23 lính lên 2 chiếc xuồng cao su chạy về phía đảo Thâm Hàng, dân binh Trung Quốc đóng trên đảo bị quân Nam Việt đuổi khỏi đảo với sự chi viện của biên đội tàu hải quân.
- 7 giờ 49 phút, tàu số 5 của Nam Việt điều 21 lính lên 2 chiếc xuồng cao su đổ bộ lên đảo Quảng Kim, lính Nam Việt đổ bộ lên đảo Quảng Kim đã khiêu khích với dân binh Trung Quốc đang đóng trên đảo, khi cảnh báo không có hiệu lực, dân binh Trung Quốc đã quả cảm nổ súng, giết chết 1 tên địch, làm bị thương 3 tên, buộc quân lính Nam Việt phải rút lui, quay về tàu vào lúc 9 giờ 20 phút. Trong thời gian này, biên đội 271 chạy cắm vào giữa 2 tàu số 4, số 5 của Nam Việt, chỉ cách tàu Nam Việt khoảng 1 dây (20), dùng hỏa pháo nhằm bắn vào quân Nam Việt đổ bộ lên đảo, để chi viện cho dân binh đóng trên đảo. Còn quân hạm Nam Việt vì ở cự ly quá gần, hỏa pháo rơi vào góc chết, nên không thể bắn trả. Hai bên đối trận lúc này chĩa pháo vào nhau, tuốt lưỡi lê, muôn phần căng thẳng.
- 8 giờ 15 phút, tàu số 16 của Nam Việt bị biên đội 396 của hải quân Trung Quốc đánh chặn đã điều chỉnh hướng lái, xông thẳng vào tàu 389 của hải quân Trung Quốc, mưu đồ buộc tàu 389 phải chuyển hướng. Đây là một pha thử thách ý chí còn hơn cả gang thép, tàu 389 không hề khiếp sợ đối thủ có trọng tải lớn hơn mình gấp 4 lần, vẫn không hề giảm tốc lực mà cũng không chuyển hướng đứng đón đầu. Cuối cùng buộc tàu số 16 phải chuyển hướng, nhưng mũi tàu vẫn đâm vào tàu 389, khiến cho cột đài chỉ huy, lan can mạn trái và máy rà bom mìn của tàu 389 bị hỏng.
Sau hành động đổ bộ lên đảo bị thất bại, hải quân Nam Việt quyết định thay đổi chiến thuật, mưu toan tìm cách rút lui dễ dàng ra khỏi trận hải chiến. 10 giờ 20 phút, 4 chiếc quân hạm của hải quân Nam Việt cùng lúc chạy ra phía ngoài, sau khi đã chiếm cứ được vị trí chiến trận có lợi, đã triển khai đội hình chiến đấu xông lại. Biên đội tàu Trung Quốc cũng lái đủ mã lực nghênh đón quân hạm Nam Việt. Khi phía quân Trung Quốc chạy ngay vào góc chết của hỏa pháo cỡ lớn bên hạm đội Nam Việt, hạm đội Nam Việt cuối cùng đành bó tay.
- 10 giờ 22 phút, tàu số 5 là tàu đô đốc của hải quân Nam Việt truyền cờ lệnh, các tàu đồng loạt nổ đạn pháo về phía quân Trung Quốc, ngay khi lửa đạn nòng hỏa pháo bên quân Nam Việt vừa lóe lên, các pháo thủ bên quân Trung Quốc cũng ấn luôn nút điện, đạp cò, đạn pháo bên quân ta gần như đồng loạt ra khỏi nòng, trận hải chiến Tây Sa chính thức nổ ra bên trong và ngoài hồ đá ngầm!
Do phát đạn pháo đầu tiên của cả hai bên đều nổ trong tình trạng ngắm chuẩn ổn định, cho nên độ chuẩn xác của đạn pháo rất cao. Cả 8 chiến hạm của hai bên tham chiến đều bị bắn trúng, đều bị hỏng ở các mức độ khác nhau. Trong đó, tàu 274 của hải quân Trung Quốc bị bắn trúng vào đài chỉ huy, chính ủy Phùng Tùng Bá, phó tàu Chu Tích Thông hy sinh ngay trên đài chỉ huy.
Căn cứ theo tình hình trang bị và tư thế chiến đấu của hai bên địch – ta, sở chỉ huy biên đội đã quyết đoán, ra lệnh tiếp tục tiếp cận địch với tốc độ cao, dùng thủ pháp tiếp cận địch để tử chiến. Các tàu chống ngầm 271 và 274 tấn công các tàu số 4 và số 5 ở bên ngoài hồ đá ngầm; các tàu rà phá bom mìn 396 và 389 tấn công các tàu số 16 và số 10 ở bên trong hồ mặn.
Hải quân Nam Việt thấy thế liền có ý đồ nhanh chóng kéo giãn khoảng cách, để phát huy được hết uy lực của hỏa pháo tầm xa bên phía mình. Tuy tàu của hải quân Trung Quốc nhỏ, hỏa lực yếu, nhưng lại có ưu thế về tốc độ cao. Hai tàu liên tục thu hẹp khoảng cách – tàu hải quân Trung Quốc áp sát vào mạn tàu hải quân Nam Việt rất nhanh, ra lệnh rót như mưa một loạt đạn hỏa pháo cỡ nhỏ, tốc độ cực nhanh vào đó, trên mặt biển quần đảo Vĩnh Lạc dày đặc tiếng rú rít của đạn hỏa pháo và những tiếng nổ vang trời, khói lửa mù mịt, những cột nước bắn lên trời, vị thế làm chủ chiến trận của hải quân Nam Việt đã bị đánh hoàn toàn tan tác.
Mặc dù chịu sự nhiễu loạn và hủy hoại của cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, việc huấn luyện quân đội bị giảm bớt, trình độ chiến thuật và kỹ thuật bị hạ thấp, nhưng trong chiến đấu, các thủy thủ đã thể hiện lòng yêu nước cao độ, tinh thần trách nhiệm mạnh mẽ, sĩ khí hiên ngang, dũng cảm quật cường, không sợ hy sinh, người trước ngã người sau tiếp bước. Các tàu đều kiên quyết chấp hành mệnh lệnh, chủ động phối hợp chi viện lẫn nhau.
Các tàu hải quân Trung Quốc được lắp đặt cặp đôi hỏa pháo cỡ nhỏ 25, 37… ở đầu tàu và đuôi tàu, uy lực bắn trúng đích từng phát không lấy gì lớn lắm, bắn liên tục trúng đích với mười mấy phát mỗi giây lại là chuyện liều mạng, tàu Nam Việt giống như chú trâu già ương ngạnh bị từng đàn chó săn hung hãn vây đánh, uy thì mạnh nhưng ở thế đơn độc đáng thương, lực mạnh nhưng không còn nhanh nhạy, nên khó lòng thoát khỏi. Do khoảng cách giữa biên đội tàu phía quân Trung Quốc với quân Nam Việt quá gần, nên rất nhiều hỏa lực phía quân Nam Việt đều rót vào tàu của họ, các tàu bên quân Nam Việt đều bị chính họ bắn nhầm ở các mức độ khác nhau.
Cùng lúc đó, quân hạm Nam Việt cũng cố sức nổ súng bắn về phía quân Trung Quốc, pháo cỡ lớn bắn gần không được liền bắn vào các tàu Trung Quốc ở xa, để chi viện cho đồng bọn. Nhưng các tàu phía quân Trung Quốc vẫn tiếp tục tiếp cận quân dịch với tốc độ cao, phát huy ưu thế cự ly gần của tốc độ bắn pháo cỡ nhỏ, áp chế quân hạm Nam Việt. Còn các quân hạm Nam Việt thì lúc này do tốc độ bắn của pháo cỡ lớn chậm, lại cộng thêm tàu bên quân Trung Quốc nhỏ, mạn tàu chỉ cao có 2 mét, cự ly quá gần mà đi vào góc chết của tàu thì điều chỉnh rất khó, không phát huy nổi ưu thế hỏa lực, nên đã bị tàu phía quân Trung Quốc bắn như điên cuồng. Để thoát khỏi thế bị động, các quân hạm Nam Việt mưu toan kéo giãn khoảng cách, nhưng tàu bên quân Trung Quốc quyết truy kích không tha, tập trung hỏa lực hết về phía các tàu số 4 và số 6 của quân Nam Việt.
Theo phương án đã định, hỏa lực các tàu 271 và 274 bên quân Trung Quốc trong trận hải chiến chuyên rót đạn nhằm đến hệ thống chủ pháo, điều khiển hỏa lực, thông tin và chỉ huy tàu số 4 (nguyên là tàu chỉ huy của Nam Việt, nhưng sáng sớm ngày hôm đó tạm thời biến thành tàu số 5) của Nam Việt, tàu này bị đánh làm thông tin bị cắt đứt, chỉ huy mất hiệu lực rất nhanh, trên đài chỉ huy bốc khói mù mịt. Tàu số 4 thấy thế bất lợi, đã vội vàng tháo chạy về hướng đông nam, kéo theo làn khói cuồn cuộn.
Tàu số 274 của quân ta vội truy đuổi theo để khỏi làm mất lợi thế chiến đấu. Lúc này, tàu số 5 của Nam Việt từ phía bên trái tiến hành đánh chặn tàu 274 của ta. Trong thế ngàn cân treo sợi tóc, bánh lái điện của tàu 274 đột nhiên phát sinh sự cố, lúc này nếu không thể điều khiển được nữa, thì chắc chắn sẽ bị đâm vào chính giữa 2 tàu địch, rơi vào thế bị động, thọ địch đằng sau lưng. Lý Phúc Tường, thuyền trưởng tàu 274, một mặt bình tĩnh ra lệnh chuyển sang lái bằng sức người để đổi hướng, đồng thời chỉ huy tổ lái chính chuyển từ dùng hết tốc lực chạy lên trước, sang dùng hết tốc lực ngoặt chuyển hướng, cuối cùng đã chiếm lại được vị trí lợi thế.
Song, tàu 274 tuy phát huy được ưu thế của mình ở mức tối đa khi cận chiến, nhưng sự mạo hiểm gặp phải khi cận chiến cũng tương đối lớn. Tổng cộng bị bắn trúng 5 phát đạn pháo 127 ly, hơn 10 phát 76 và 40 ly, đường dây thông tin trên tàu bị bắn hỏng hoàn toàn, chỉ huy bị gián đoạn. Các chỉ huy gặp nguy không hoảng hốt, đã điềm tĩnh dùng khẩu lệnh và tay ngoan cường chỉ huy tác chiến, vẫn tiếp cận tàu số 5 của địch hết tốc lực, bắn từ 1000m đến 300m, đạn pháo hung hãn rót như mưa lên tàu địch, khiến cho tàu số 5 của Nam Việt bị trúng đạn nhiều chỗ, chủ pháo bị câm tịt, viên thượng tá chỉ huy hải quân Nam Việt bị bắn trọng thương, mấy tên lính Nam Việt trên boong tàu và lá quân kỳ trên cột buồm cũng bị hỏa pháo quét rơi xuống biển.
Cùng lúc đó, các tàu 396 và 389 cũng áp sát tàu số 16 của Nam Việt, tiến hành tập trung bắn gần, khiến cho tàu này bị trúng đạn bốc cháy rất nhanh, kéo theo khói, hoảng hốt tháo chạy.
Tàu số 10 của hải quân Nam Việt tới giải vây cho tàu số 16, thừa cơ đánh trộm các tàu 389 và 396. Các tàu 389 và 396 lập tức chuyển hướng hỏa pháo, đồng loạt bắn gấp vào tàu số 10, cả băng đạn pháo bắn sang mặt cabin tàu, khoang đạn dược bị bắn trúng rất nhanh, tàu số 10 lật nghiêng rồi nổ bốc cháy trong nháy mắt. Để làm cho tàu “Sóng dữ” bị trọng thương không thể chạy thoát, tàu 389 tiếp tục áp sát không tha, bắn dữ dội về phía đó.
Một điều đáng nói là, tàu 389 là con tàu cũ kỹ từ hồi thập kỷ 50 của hải quân Trung Quốc, khi tiếp nhận mệnh lệnh là lúc mới sửa chữa xong trong xưởng 1 năm, lấy về được 3 ngày, thậm chí còn chưa kịp chạy thử, bắn hỏa pháo thử thì đã phải chạy suốt ngày đêm đến Tây Sa tham gia trận hải chiến. Trải qua một trận kịch chiến khủng khiếp, tuy tàu “Sóng dữ” của Nam Việt bị thương tháo chạy, nhưng tàu 389 thực tế cũng phải mang theo thương tích mà truy kích. Đài chỉ huy của tàu 389 khi ấy đã bị hỏa pháo địch bắn hỏng, số người thương vong rất lớn. Nhưng sĩ quan binh lính cả tàu cùng chung chí căm thù địch, coi thường cái chết, đã giữ vững vị trí chiến đấu, dũng cảm tác chiến.
Khi tàu 389 đang truy kích, do bánh lái bị hỏng, tốc độ quá nhanh, nên đã đâm thẳng vào giữa 2 tàu của quân Nam Việt, chịu sự tấn công của hỏa lực chằng chịt. Còn tàu 396 ở phía sau thì sợ bắn nhầm bị thương tàu mình nên đã không dám chi viện. Một phát đạn pháo bắn vào giữa hai máy chính của tàu 389, trong khoang phát nổ bốc cháy, lan ra xung quanh rất nhanh. Sĩ quan binh lính trên tàu một mặt kiên trì chiến đấu, mặt khác tổ chức cho mọi người cố sức dập lửa. Cuối cùng đã kịp thời dập được lửa, bảo vệ được con tàu. Để cứu chữa động cơ bị bắn hỏng, 5 chiến sĩ trong khoang máy phụ, trong khói lửa mịt mù, đã kiên trì chiến đấu ở tình trạng thiếu oxy nghiêm trọng, cuối cùng tất cả đều dũng cảm hy sinh.
Hỏa pháo của hai bên lúc này đều không thể điều ra được, Tiêu Đức Vạn, thuyền trưởng tàu 389 đã tùy cơ ứng biến: Ném lựu đạn! Khi ấy trên tàu 389 chở tới mấy hòm lựu đạn chuyển cho dân binh đóng trên đảo, do đêm 18 có sóng gió quá lớn nên không đưa lên đảo được, đến lúc này lại phải điều ra để dùng. Thế là các thủy thủ Trung Quốc vội ba chân bốn cẳng ném từng chùm lựu đạn sang tàu số 10 của Nam Việt, nhiều người ôm cả súng tiểu liên bắn quét ngang vả mặt boong tàu số 10 của Nam Việt, thậm chí còn bồng cả tên lửa chống tăng nhằm vào mọi vị trí chiến đấu trên tàu địch mà bắn! (Đây chính là xuất xứ của dòng tin “quân Trung cộng sử dụng cả lựu đạn” mà Nam Việt đã cung cấp cho báo chí quốc tế sau đó). Ở lần tác chiến áp sát mạn tàu hiếm hoi trong trận hải chiến hiện đại này, thuyền trưởng tàu số 10 của Nam Việt đã bị bắn chết ngay tại trận (21).
Nhân lúc kẻ địch đang hoảng hồn chuyển hướng, tàu 389 ngoặc hết tốc lực, đuổi theo tấn công quân Nam Việt, tàu 389 đã bị trọng thương, 3 khoang bị nước vào, thân tàu bị nghiêng, tốc độ lái cũng chậm hẳn lại, nên đành lao vào bãi san hô tự cứu. Lúc này nước biển từ đằng sau khoang đạn chảy vào khoang máy chính, máy chính đang vận hành với tốc độ cao bị đe dọa nghiêm trọng. Quách Ngọc Đông và Quách Thuận Phục trên mình đang bị thương nặng đã kiên trì bít chặt khoang đạn để bảo vệ cho máy chính được vận hành bình thường, cả hai người đều đã hy sinh tại vị trí chiến đấu ở tư thế đang bít khoang đạn.
- 10 giờ 42 phút, tàu số 16 của Nam Việt luôn ở vị trí quan sát bên ngoài, cho rằng thời cơ đã đến, liền lập tức ngoặc đầu tàu, hướng tới đánh tàu 389. Đạn pháo trên tàu 389 đã bắn hết sạch, trưởng tàu Tiêu Đức Vạn thấy thế, lập tức ra lệnh lắp bom chống ngầm, rất có thể sẽ gây sát thương cả chính mình, nhưng trong trận hải chiến sống mái này, ngoài phương án này ra đã không còn lựa chọn nào khác, khi tàu 389 đã lắp xong bom chống ngầm đang chuẩn bị bắn, tàu 396 vừa kịp đuổi tới chi viện, yểm hộ cho tàu 386 rút khỏi trận chiến. Tàu số 16 sợ lại bị đánh đau nên đã vội vàng tháo chạy ra ngoài khơi. Khoang động cơ đằng trước của tàu số 16 chìm dưới nước, bị trúng phải 1 phát đạn pháo 127 ly của tàu số 5 (may mà quả đạn pháo này không nổ, nếu không thì quân Nam Việt đã tự đánh chìm 1 tàu của mình trước), sau đó lại bị các tàu 389 và 396 của phía Trung Quốc tấn công, lúc này cả hệ thống thông tin, điều khiển, cung cấp điện của tàu ấy đều đã mất, tàu bị nghiêng lệch 20º, khi về đến quân cảng Nam Việt sau đó đã bị nghiêng lệch đến 40º, chỉ còn mỗi một máy chính là còn vận hành.
Tình trạng của các tàu Trung Quốc lúc này cũng không hay: Tàu 389 bị cháy to, chưa tắt, thân tàu nghiêng lệch nặng, buộc phải lao lên bãi cạn với sự hiệp trợ của tàu cá bên quân ta để khỏi bị chìm. Ba tàu còn lại cũng bị tổn thương ở các mức độ khác nhau, hơn nữa số đạn còn lại cũng không nhiều.
- 11 giờ 20 phút, rađa của hạm đội hải quân Nam Việt phát hiện thấy hạm đội chi viện của hải quân Trung Quốc. Đây là 2 tàu 281 và 282 thuộc đại đội 74 tàu chống ngầm do Lưu Hỷ Trung chỉ huy. Để có thể đến vùng chiến địa được sớm, 2 tàu này đã vượt qua sóng gió, chạy gấp với tốc độ đối đa 34, cao hơn so với thiết kế tàu, cuối cùng đã đến kịp, khiến cho cán cân thắng lợi của trận hải chiến Tây Sa cuối cùng đã nghiêng về phía quân Trung Quốc.
Các tàu Nam Việt tự biết không thể thắng được, nên đã lần lượt quay đầu tháo chạy, tản mát về phía tây bắc và phía đông nam, còn tàu số 10 do bị thương quá nặng, nên đã bị bỏ mặc mãi tít tận đằng sau. Nghe nói giữa đường chúng từng yêu cầu hải quân Mỹ can thiệp, đồng thời cứu viện các binh lính trên tàu số 10, nhưng đã bị quân Mỹ từ chối.
Từ lúc tàu Nam Việt nổ súng cho đến khi hạm đội của chúng bị đánh tan tác, chỉ vẻn vẹn trong vòng 58 phút. Sau trận chiến, hải quân Nam Việt kiểm lại, ngoại trừ tàu số 10 bị đánh chìm, tàu số 16 bị trúng 820 phát đạn, các tàu số 4, số 5 đều bị trúng cả trên ngàn phát đạn, có thể thấy được độ ác liệt của tình hình chiến sự cùng lòng dũng cảm trong tác chiến của hải quân Trung Quốc khi ấy.
- 11 giờ 30 phút, biên đội 281 chạy tới chỗ cách đảo Thâm Hàng 6,4 hải lý về phía đông, lúc này, sở chỉ huy biên đội tàu hải quân Trung Quốc lập tức ra lệnh cho các tàu 281 và tàu 282 quyết không để cho tàu số 10 của Nam Việt tháo chạy.
- 11 giờ 49 phút, các tàu chống ngầm 281 và 282, từ phía đông đảo Thâm Hàng, đi vào hồ đá ngầm, lập tức lao tới truy diệt tàu số 10 của địch. 12 giờ 12 phút, 2 tàu chuyển hướng nổ súng từ vị trí 1200 m, cả 16 khẩu pháo đồng loạt nhả đạn. Loạt đầu tiên bắn hỏng buồng lái của tàu địch, loạt thứ hai tập trung bắn vào bộ phận trung tâm chìm dưới nước, trong 4 phút bắn tới 1.766 phát đạn pháo, khoang dầu tàu số 10 của địch bốc cháy, kho đạn lập tức nổ tung. 12 giờ 30 phút, tàu 281 ngừng bắn. 14 giờ 52 phút, tàu số 10 bị nổ và chìm ở cách bãi đá ngầm Linh Dương 2,5 hải lý về phía nam.
Khi ấy, biên đội hải quân Trung Quốc bận rộn tổ chức hạm đội phòng không và tàu 389 cứu hộ cứu nạn, không tổ chức lực lượng cứu vớt tù binh. Bốn, năm ngày sau, một chiếc tàu dầu của Đan Mạch đã cứu được 23 lính Nam Việt đang trôi giạt trên biển, 60 thuyền viên còn lại trên tàu “Sóng dữ” của Nam Việt đã bị mất xác trong sóng dữ của Nam Hải.
Trận hải chiến Tây Sa cùng kết quả của nó đã khiến cho cả chính phủ Trung Quốc và Nam Việt cùng cảm thấy kinh hoàng ngoài dự kiến. Chính phủ Trung Quốc lập tức bắt đầu động viên chiến tranh, với ý đồ mở rộng chiến quả, thu hồi lại 3 đảo San Hô, Cam Tuyền, Kim Ngân đã bị Nam Việt xâm chiếm, ra một đòn là giải quyết được vấn đề Tây Sa.
Đêm ngày 19 tháng 1, hạm đội hải quân Nam Hải tuân theo chỉ thị của cấp trên đã nhanh chóng điều tổng cộng 15 tàu, gồm 1 tàu cứu hộ, 1 tàu chống ngầm, 8 tàu cứu hộ loại nhỏ, 5 tàu ngư lôi, vận chuyển 3 đại đội thuộc trung đoàn 10 pháo đài đồn trú Du Lâm, 2 đội trinh sát cùng một bộ phận các phân đội và dân binh tăng cường thuộc Quân khu Quảng Châu, tổng cộng 508 người, lần lượt tới vùng biển quần đảo Vĩnh Lạc từ 4 giờ 30 phút đến 8 giờ ngày 20, với sự yểm hộ của hàng chục lượt máy bay chiến đấu của lính hàng không thuộc Hạm đội Nam Hải. Chuẩn bị thu hồi lại các đảo đã bị quân đội Nam Việt xâm chiếm, đồng thời đánh các tàu Nam Việt có khả năng tái xâm nhập.
- 9 giờ 35 phút, phân đội thủy thủ phát lệnh tấn công lần lượt từng đảo Cam Tuyền, San Hô và Kim Ngân đã bị quân đội Nam Việt xâm chiếm, trận chiến được bố trí như sau: Đầu tiên tập trung binh lực tấn công vào đảo Cam Tuyền không có công sự kiên cố, nằm giữa 2 đảo San Hô và Kim Ngân, đánh hạ đảo này xong, sẽ tiến công tiếp vào đảo San Hô có công sự kiên cố, binh lực tương đối nhiều, cuối cùng tấn công đảo Kim Ngân. Đồng thời với việc tấn công, sẽ tổ chức cho các lực lượng trên biển dánh các tàu hải quân của quân đội Nam Việt tới tăng viện cho quần đảo Vĩnh Lạc.
Sau khi đến được vị trí đã định, bộ đội đổ bộ chuyển sang xuồng cao su và xuồng nhỏ, với sự yểm hộ của hỏa pháo hải quân, đại đội 4, đại đội 5 và 2 đội trinh sát dàn quân thành 3 đội đổ bộ lên bãi cạn đông nam đảo Cam Tuyền.
Đối mắt với sự tấn công ngoan cường dũng mãnh của quân đội Trung Quốc, quân đội Nam Việt xâm chiếm đảo này thấy khó bề chống cự, nên sau khi buộc phải rời bỏ trận địa bãi cạn, đã rút về khu vực giữa đảo Cam Tuyền. Sau khi đại đội 4 đánh đầu trận đã chiếm lĩnh được trận địa đầu bãi cạn xong, không để cho quân địch được nghỉ, chỉ mất 10 phút đã buộc toàn bộ sĩ quan binh lính của quân đội Nam Việt đang bị bao vây phải nộp vũ khí làm tù binh.
Sau khi nắm được đảo Cam Tuyền, đại đội 5 và 2 đội trinh sát cùng một bộ phận dân binh đã không quản mệt nhọc, lại phân nhau lê 4 tàu cứu hộ và 1 tàu rà phá bom mìn tiến vào mặt biển rạn san hô phía nam đảo San Hô, rồi lại chuyển sang xuồng cao su, chia làm 3 thê đội, từ phía tây nam, đông nam và nam của đảo này, đồng thời ra lệnh tấn công quân đội Nam Việt xâm nhập.
Chỉ huy thê đội 1 của đại đội 5 trên đường xuất kích tới đảo San Hô, chiếc xuồng cao su không may đã bị đạn địch bắn thủng, người và vũ khí đều bị nhào xuống biển, để khỏi lỡ thời cơ chiến đấu, họ đã đạp sóng tiến tới, bảo đảm chiếm cứ được trận địa bãi cạn đúng giờ. Hơn 30 tên sĩ quan binh lính Nam Việt xâm nhập đảo này chỉ còn cách tháo chạy khỏi khu vực giữa đảo.
Sau khi cuộc chiến nổ ra, các chỉ huy 2 đội trinh sát thuộc thê đội 2, phối hợp hành động với đại đội 5, đã tới tấp nhảy xuống biển ở chỗ cách bờ hơn 700m, sau khi bơi đổ bộ lên bờ, đã kề vai chiến đấu với đại đội 5, khiến cho phần lớn quân lính Nam Việt đang tháo chạy tan tác phải giơ tay đầu hàng.
Nhưng cũng còn một số ít quân địch ngoan cố chui vào lô cốt ở giữa đảo, nổ súng chống cự, quân đội Trung Quốc đánh trả dữ dội, đồng thời gọi chúng ra bằng tiếng Việt, cuối cùng buộc những tên quan quân Nam Việt này phải giương cờ trắng ra khỏi lô cốt nộp vũ khí đầu hàng. Trong quá trình dọn dẹp chiến trường và tìm kiếm tiêu diệt địch, bộ đội đổ bộ lên đảo của ta còn bắt được Phạm Văn Hồng, thiếu tá chỉ huy tối cao của quân đội Nam Việt trên đảo San Hô trong bụi cây.
Khi đã thu hồi được 2 đảo Cam Tuyền và San Hô, đại đội 1 phát lệnh tấn công đảo Kim Ngân. Sau khi đổ bộ lên đảo, phát hiện thấy có 15 tên địch xâm chiếm đảo này đã đáp xuồng cao su tháo chạy khỏi đảo từ trưa ngày 19. Mười ngày sau được một tàu cá Nam Việt cứu, có 1 người đã chết. Thế là bộ đội chủ công thu hồi đảo Kim Ngân chưa phải bắn một viên đạn nào, đã hoàn thành nhiệm vụ tác chiến một cách thuận lợi. Đến 13 giờ 45 phút đã thu hồi được cả 3 đảo, tiêu diệt hoàn toàn quân đội Nam Việt xâm nhập.
Đến đây, toàn bộ quần đảo Tây Sa đã trở về lòng tổ quốc.
Trưa ngày 20 tháng 1, nhà cầm quyền Nam Việt sau khi được tin 2 đảo Cam Tuyền, San Hô đã bị quân đội Trung Quốc đoạt lại, liền lập tức điều tàu đổ bộ phiên hiệu “Kỳ Lân” chở binh lực gồm 1 tiểu đoàn lính đánh bộ chạy đến đảo San Hô. Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc và không quân của Quân khu Quảng Châu cũng lập tức điều quân hạm và hàng chục lượt máy bay tác chiến triển khai nghênh chiến, để bảo đảm cho việc chiến đấu thu hồi 3 đảo được tiến hành một cách thuận lợi. Nhà cầm quyền Nam Việt qua cuộc đọ sức của trận hải chiến, đã sợ tàu “Kỳ Lân” có khi mà không có về, nên chỉ để cho tàu này chạy đến vị trí cách quần đảo Vĩnh Lạc hơn 40 hải lý là hạ lệnh quay về.
Sau trận hải chiến và trận chiến đổ bộ Tây Sa kết thúc, để cứu vãn lại thể diện, nhà cầm quyền Nam Việt một dạo đã nhiều lần điều động máy bay và quân hạm, mưu đồ đọ lại cao thấp, ngoài việc điều 2 tàu khu trục chạy từ Vũng Tàu và Nha Trang đến tập kết ở cảng Đà Nẵng ra, còn điều cả 6 quân hạm xuất phát từ cảng Đà Nẵng chạy về hướng quần đảo Tây Sa, đồng thời ra mệnh lệnh đặt hải quân, không quân ở khu vực này vào tình trạng cảnh giới khẩn cấp, phát tín hiệu chiến tranh lần nữa với Trung Quốc. Nhưng sau khi đối mặt với cảnh tăng viện quy mô lớn của Trung Quốc, với bộ đội hải quân Tây Sa đã nghiêm trận chờ từ trước, nhà cầm quyền Nam Việt đã không dám manh động, cuối cùng buộc phải thốt ra lời than “nên tránh tiếp tục tác chiến với Trung Quốc” vào ngày 21 tháng 1.
Đêm ngày 19 tháng 1, hạm đội hải quân Nam Hải tuân theo chỉ thị của cấp trên đã nhanh chóng điều tổng cộng 15 tàu, gồm 1 tàu cứu hộ, 1 tàu chống ngầm, 8 tàu cứu hộ loại nhỏ, 5 tàu ngư lôi, vận chuyển 3 đại đội thuộc trung đoàn 10 pháo đài đồn trú Du Lâm, 2 đội trinh sát cùng một bộ phận các phân đội và dân binh tăng cường thuộc Quân khu Quảng Châu, tổng cộng 508 người, lần lượt tới vùng biển quần đảo Vĩnh Lạc từ 4 giờ 30 phút đến 8 giờ ngày 20, với sự yểm hộ của hàng chục lượt máy bay chiến đấu của lính hàng không thuộc Hạm đội Nam Hải. Chuẩn bị thu hồi lại các đảo đã bị quân đội Nam Việt xâm chiếm, đồng thời đánh các tàu Nam Việt có khả năng tái xâm nhập.
- 9 giờ 35 phút, phân đội thủy thủ phát lệnh tấn công lần lượt từng đảo Cam Tuyền, San Hô và Kim Ngân đã bị quân đội Nam Việt xâm chiếm, trận chiến được bố trí như sau: Đầu tiên tập trung binh lực tấn công vào đảo Cam Tuyền không có công sự kiên cố, nằm giữa 2 đảo San Hô và Kim Ngân, đánh hạ đảo này xong, sẽ tiến công tiếp vào đảo San Hô có công sự kiên cố, binh lực tương đối nhiều, cuối cùng tấn công đảo Kim Ngân. Đồng thời với việc tấn công, sẽ tổ chức cho các lực lượng trên biển dánh các tàu hải quân của quân đội Nam Việt tới tăng viện cho quần đảo Vĩnh Lạc.
Sau khi đến được vị trí đã định, bộ đội đổ bộ chuyển sang xuồng cao su và xuồng nhỏ, với sự yểm hộ của hỏa pháo hải quân, đại đội 4, đại đội 5 và 2 đội trinh sát dàn quân thành 3 đội đổ bộ lên bãi cạn đông nam đảo Cam Tuyền.
Đối mắt với sự tấn công ngoan cường dũng mãnh của quân đội Trung Quốc, quân đội Nam Việt xâm chiếm đảo này thấy khó bề chống cự, nên sau khi buộc phải rời bỏ trận địa bãi cạn, đã rút về khu vực giữa đảo Cam Tuyền. Sau khi đại đội 4 đánh đầu trận đã chiếm lĩnh được trận địa đầu bãi cạn xong, không để cho quân địch được nghỉ, chỉ mất 10 phút đã buộc toàn bộ sĩ quan binh lính của quân đội Nam Việt đang bị bao vây phải nộp vũ khí làm tù binh.
Sau khi nắm được đảo Cam Tuyền, đại đội 5 và 2 đội trinh sát cùng một bộ phận dân binh đã không quản mệt nhọc, lại phân nhau lê 4 tàu cứu hộ và 1 tàu rà phá bom mìn tiến vào mặt biển rạn san hô phía nam đảo San Hô, rồi lại chuyển sang xuồng cao su, chia làm 3 thê đội, từ phía tây nam, đông nam và nam của đảo này, đồng thời ra lệnh tấn công quân đội Nam Việt xâm nhập.
Chỉ huy thê đội 1 của đại đội 5 trên đường xuất kích tới đảo San Hô, chiếc xuồng cao su không may đã bị đạn địch bắn thủng, người và vũ khí đều bị nhào xuống biển, để khỏi lỡ thời cơ chiến đấu, họ đã đạp sóng tiến tới, bảo đảm chiếm cứ được trận địa bãi cạn đúng giờ. Hơn 30 tên sĩ quan binh lính Nam Việt xâm nhập đảo này chỉ còn cách tháo chạy khỏi khu vực giữa đảo.
Sau khi cuộc chiến nổ ra, các chỉ huy 2 đội trinh sát thuộc thê đội 2, phối hợp hành động với đại đội 5, đã tới tấp nhảy xuống biển ở chỗ cách bờ hơn 700m, sau khi bơi đổ bộ lên bờ, đã kề vai chiến đấu với đại đội 5, khiến cho phần lớn quân lính Nam Việt đang tháo chạy tan tác phải giơ tay đầu hàng.
Nhưng cũng còn một số ít quân địch ngoan cố chui vào lô cốt ở giữa đảo, nổ súng chống cự, quân đội Trung Quốc đánh trả dữ dội, đồng thời gọi chúng ra bằng tiếng Việt, cuối cùng buộc những tên quan quân Nam Việt này phải giương cờ trắng ra khỏi lô cốt nộp vũ khí đầu hàng. Trong quá trình dọn dẹp chiến trường và tìm kiếm tiêu diệt địch, bộ đội đổ bộ lên đảo của ta còn bắt được Phạm Văn Hồng, thiếu tá chỉ huy tối cao của quân đội Nam Việt trên đảo San Hô trong bụi cây.
Khi đã thu hồi được 2 đảo Cam Tuyền và San Hô, đại đội 1 phát lệnh tấn công đảo Kim Ngân. Sau khi đổ bộ lên đảo, phát hiện thấy có 15 tên địch xâm chiếm đảo này đã đáp xuồng cao su tháo chạy khỏi đảo từ trưa ngày 19. Mười ngày sau được một tàu cá Nam Việt cứu, có 1 người đã chết. Thế là bộ đội chủ công thu hồi đảo Kim Ngân chưa phải bắn một viên đạn nào, đã hoàn thành nhiệm vụ tác chiến một cách thuận lợi. Đến 13 giờ 45 phút đã thu hồi được cả 3 đảo, tiêu diệt hoàn toàn quân đội Nam Việt xâm nhập.
Đến đây, toàn bộ quần đảo Tây Sa đã trở về lòng tổ quốc.
Trưa ngày 20 tháng 1, nhà cầm quyền Nam Việt sau khi được tin 2 đảo Cam Tuyền, San Hô đã bị quân đội Trung Quốc đoạt lại, liền lập tức điều tàu đổ bộ phiên hiệu “Kỳ Lân” chở binh lực gồm 1 tiểu đoàn lính đánh bộ chạy đến đảo San Hô. Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc và không quân của Quân khu Quảng Châu cũng lập tức điều quân hạm và hàng chục lượt máy bay tác chiến triển khai nghênh chiến, để bảo đảm cho việc chiến đấu thu hồi 3 đảo được tiến hành một cách thuận lợi. Nhà cầm quyền Nam Việt qua cuộc đọ sức của trận hải chiến, đã sợ tàu “Kỳ Lân” có khi mà không có về, nên chỉ để cho tàu này chạy đến vị trí cách quần đảo Vĩnh Lạc hơn 40 hải lý là hạ lệnh quay về.
Sau trận hải chiến và trận chiến đổ bộ Tây Sa kết thúc, để cứu vãn lại thể diện, nhà cầm quyền Nam Việt một dạo đã nhiều lần điều động máy bay và quân hạm, mưu đồ đọ lại cao thấp, ngoài việc điều 2 tàu khu trục chạy từ Vũng Tàu và Nha Trang đến tập kết ở cảng Đà Nẵng ra, còn điều cả 6 quân hạm xuất phát từ cảng Đà Nẵng chạy về hướng quần đảo Tây Sa, đồng thời ra mệnh lệnh đặt hải quân, không quân ở khu vực này vào tình trạng cảnh giới khẩn cấp, phát tín hiệu chiến tranh lần nữa với Trung Quốc. Nhưng sau khi đối mặt với cảnh tăng viện quy mô lớn của Trung Quốc, với bộ đội hải quân Tây Sa đã nghiêm trận chờ từ trước, nhà cầm quyền Nam Việt đã không dám manh động, cuối cùng buộc phải thốt ra lời than “nên tránh tiếp tục tác chiến với Trung Quốc” vào ngày 21 tháng 1.
Nghĩa trang liệt sĩ trận hải chiến Tây Sa cùng danh sách những người đã hy sinh Sau vụ việc này, nhà cầm quyền Nam Việt ra sức che đậy cho những thất bại của mình, Lê Trọng Hiên, phát ngôn viên quân sự Nam Việt, đã tuyên bố trước cuộc họp báo: “Lần chiến đấu này, con số tàu của Trung Quốc từ 11 chiếc tăng lên 16 chiếc, bao gồm 4 tàu khu trục Komar trang bị tên lửa Styx, các tàu Nam Việt đều bị loại ‘tên lửa Styx’ này bắn trúng”. Đã lấy đó để truy tìm cớ thất bại cho mình. Ngụy Minh Sâm, Tổng chỉ huy trên biển của quân Trung Quốc nghe xong cười sảng khoái, nói: “Nếu thực sự chúng ta có những đồ chơi tiên tiến như vậy, thì trận hải chiến Tây Sa sẽ còn đánh hay hơn”.
Lần hải chiến này là lần đầu tiên hải quân Trung Quốc ra khỏi bờ biển, tác chiến ở vùng biển mới lạ. Trong trận hải chiến oai hùng mà quân dân Trung Quốc thề chết bảo vệ quần đảo Tây Sa, hải quân Trung Quốc chỉ được trang bị ở mức yếu thế, các sĩ quan binh lính đã chiến đấu dũng cảm, vận dụng chiến thuật thành công, làm chìm 1 pháo hạm hộ vệ của hải quân Nam Việt, bắn bị thương 3 tàu khu trục, bắn chết thuyền trưởng, thuyền phó tàu “Sóng dữ”, thuyền trưởng tàu “Trần Khánh Dư” cùng hơn 100 sĩ quan binh lính dưới quyền của chúng, bắn bị thương viên thượng tá chỉ huy hiện trường phía địch là Hà Văn Ngạc; trong khi tác chiến đổ bộ thu hồi 3 đảo Cam Tuyền, San Hô và Kim Ngân, bộ đội và dân binh Trung Quốc đã bắt sống thiếu tá Phạm Văn Hồng cùng 48 sĩ quan binh lính dưới quyền của quân đội Nam Việt, trong đó có cả viên sĩ quan liên lạc Gerald Emile Koch, thuộc Lãnh sự quán Mỹ, thường trú tại Đà Nẵng, Nam Việt, cũng đã bị quân dân Trung Quốc bắt làm tù nhân. Nhìn nhận lại sự thảm hại trong đối sánh lực lượng giữa hai bên, kết quả trận chiến như vậy cũng là hiếm gặp trong lịch sử hải quân thế giới.
Trong trận chiến bảo vệ quần đảo Tây Sa, quân dân Trung Quốc cũng đã phải có những sự trả giá nhất định. 18 sĩ quan binh lính là Phùng Tùng Bá, Chu Thích Thông, Tăng Đoan Dương, Vương Thành Phương, Khương Quảng Hữu, Vương Tái Hùng, Lâm Hán Siêu, Văn Kim Vân, Hoàng Hữu Xuân, Lý Khai Chi, Quách Thuận Phúc, Quách Ngọc Đông, Dương Tùng Lâm, La Hoa Thắng, Chu Hữu Phương, Tăng Minh Quý, Hà Đức Kim, Thạch Tạo… đã anh dũng hy sinh, 67 người tham chiến bị thương, tàu rà phá bom mìn 389 bị trọng thương nằm trên bãi cạn, tàu chống ngầm 274 bị hỏng nặng, tàu rà phá bom mìn 396 và tàu chống ngầm 271 bị hỏng nhẹ.
Ngày 27 tháng 2 năm 1974, Bộ ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố với toàn thế giới, chính phủ Trung Quốc quyết định toàn bộ 48 sĩ quan binh lính Nam Việt như Phạm Văn Hồng… cùng 1 sĩ quan liên lạc Mỹ bị bắt làm tù binh trong trận phản kích tự vệ ở quần đảo Tây Sa được hồi hương.
Nghĩa trang liệt sĩ trận hải chiến Tây Sa được xây dựng năm 1975, tọa lạc ở Âu Gia Viên, thị trấn Hồng Sa, thành phố Tam Á. Hạm đội Nam Hải trong trận hải chiến Tây Sa tổng cộng có 18 người đã hy sinh oanh liệt vì tổ quốc, vì nhân dân. Họ là:
Phùng Tùng Bá, Chu Thích Thông, Tăng Đoan Dương, Vương Thành Phương, Khương Quảng Hữu, Vương Tái Hùng, Lâm Hán Siêu, Văn Kim Vân, Hoàng Hữu Xuân, Lý Khai Chi, Quách Thuận Phúc, Quách Ngọc Đông, Dương Tùng Lâm, La Hoa Thắng, Chu Hữu Phương, Tăng Minh Quý, Hà Đức Kim, Thạch Tạo.
Lần hải chiến này là lần đầu tiên hải quân Trung Quốc ra khỏi bờ biển, tác chiến ở vùng biển mới lạ. Trong trận hải chiến oai hùng mà quân dân Trung Quốc thề chết bảo vệ quần đảo Tây Sa, hải quân Trung Quốc chỉ được trang bị ở mức yếu thế, các sĩ quan binh lính đã chiến đấu dũng cảm, vận dụng chiến thuật thành công, làm chìm 1 pháo hạm hộ vệ của hải quân Nam Việt, bắn bị thương 3 tàu khu trục, bắn chết thuyền trưởng, thuyền phó tàu “Sóng dữ”, thuyền trưởng tàu “Trần Khánh Dư” cùng hơn 100 sĩ quan binh lính dưới quyền của chúng, bắn bị thương viên thượng tá chỉ huy hiện trường phía địch là Hà Văn Ngạc; trong khi tác chiến đổ bộ thu hồi 3 đảo Cam Tuyền, San Hô và Kim Ngân, bộ đội và dân binh Trung Quốc đã bắt sống thiếu tá Phạm Văn Hồng cùng 48 sĩ quan binh lính dưới quyền của quân đội Nam Việt, trong đó có cả viên sĩ quan liên lạc Gerald Emile Koch, thuộc Lãnh sự quán Mỹ, thường trú tại Đà Nẵng, Nam Việt, cũng đã bị quân dân Trung Quốc bắt làm tù nhân. Nhìn nhận lại sự thảm hại trong đối sánh lực lượng giữa hai bên, kết quả trận chiến như vậy cũng là hiếm gặp trong lịch sử hải quân thế giới.
Trong trận chiến bảo vệ quần đảo Tây Sa, quân dân Trung Quốc cũng đã phải có những sự trả giá nhất định. 18 sĩ quan binh lính là Phùng Tùng Bá, Chu Thích Thông, Tăng Đoan Dương, Vương Thành Phương, Khương Quảng Hữu, Vương Tái Hùng, Lâm Hán Siêu, Văn Kim Vân, Hoàng Hữu Xuân, Lý Khai Chi, Quách Thuận Phúc, Quách Ngọc Đông, Dương Tùng Lâm, La Hoa Thắng, Chu Hữu Phương, Tăng Minh Quý, Hà Đức Kim, Thạch Tạo… đã anh dũng hy sinh, 67 người tham chiến bị thương, tàu rà phá bom mìn 389 bị trọng thương nằm trên bãi cạn, tàu chống ngầm 274 bị hỏng nặng, tàu rà phá bom mìn 396 và tàu chống ngầm 271 bị hỏng nhẹ.
Ngày 27 tháng 2 năm 1974, Bộ ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố với toàn thế giới, chính phủ Trung Quốc quyết định toàn bộ 48 sĩ quan binh lính Nam Việt như Phạm Văn Hồng… cùng 1 sĩ quan liên lạc Mỹ bị bắt làm tù binh trong trận phản kích tự vệ ở quần đảo Tây Sa được hồi hương.
Nghĩa trang liệt sĩ trận hải chiến Tây Sa được xây dựng năm 1975, tọa lạc ở Âu Gia Viên, thị trấn Hồng Sa, thành phố Tam Á. Hạm đội Nam Hải trong trận hải chiến Tây Sa tổng cộng có 18 người đã hy sinh oanh liệt vì tổ quốc, vì nhân dân. Họ là:
Phùng Tùng Bá, Chu Thích Thông, Tăng Đoan Dương, Vương Thành Phương, Khương Quảng Hữu, Vương Tái Hùng, Lâm Hán Siêu, Văn Kim Vân, Hoàng Hữu Xuân, Lý Khai Chi, Quách Thuận Phúc, Quách Ngọc Đông, Dương Tùng Lâm, La Hoa Thắng, Chu Hữu Phương, Tăng Minh Quý, Hà Đức Kim, Thạch Tạo.
Nghĩa trang liệt sĩ trận hải chiến Tây Sa được xây dựng năm 1975,
tọa lạc ở Âu Gia Viên, thị trấn Hồng Sa, thành phố Tam Á
Ghi chú:(1) Tức Việt Nam Cộng hòa.
(2) Tức nhóm đảo Trăng Khuyết, còn có tên khác là nhóm Nguyệt Thiềm. Tên tiếng Anh là Crescent Group.
(3) Tức Hoàng Sa.
(4) Tức biển Đông.
(5) Nhóm An Vĩnh, tên tiếng Anh là Amphitrite Group.
(6) Tức đảo Phú Lâm, tiếng Anh là Woody Island.
(7) Không rõ đảo San Hô này có tên tiếng Việt là gì.
(8) Tức Đảo Hữu Nhật, tên tiếng Anh là Robert Island.
(9) Tức Đảo Quang Ảnh, tên tiếng Anh là Money Island.
(10) Tức Đảo Quang Hòa Đông và Quang Hòa Tây. Tên tiếng Anh là Duncan Islands.
(11) Không rõ đảo Quảng Kim mà Trung Quốc nhắc ở đây có phải là đảo Đá Lồi với tên tiếng Anh là Discovery Reef?
(12) Tức Đảo Duy Mộng. Tên tiếng Anh là Drummond Island.
(13) Không rõ.
(14) Không rõ.
(15) Tức quần đảo Trường Sa.
(16) Tức đảo trường Sa.
(17) Tức đảo Ba Bình.
(18) Tỉnh Đồng Nai sau này.
(19) Tức hộ tống hạm Nhật Tảo.
(20) 1 dây, tức 1 chain, là đơn vị đo chiều dài ở Anh, tương đương 66 bộ hay 22 yards, khoảng 20.1168 mét.
(21) Tức Trung tá Ngụy Văn Thà, thuyền trưởng hộ tống hạm Nhựt Tảo, HQ-10.
Nguồn: TIEXUE.NET
(2) Tức nhóm đảo Trăng Khuyết, còn có tên khác là nhóm Nguyệt Thiềm. Tên tiếng Anh là Crescent Group.
(3) Tức Hoàng Sa.
(4) Tức biển Đông.
(5) Nhóm An Vĩnh, tên tiếng Anh là Amphitrite Group.
(6) Tức đảo Phú Lâm, tiếng Anh là Woody Island.
(7) Không rõ đảo San Hô này có tên tiếng Việt là gì.
(8) Tức Đảo Hữu Nhật, tên tiếng Anh là Robert Island.
(9) Tức Đảo Quang Ảnh, tên tiếng Anh là Money Island.
(10) Tức Đảo Quang Hòa Đông và Quang Hòa Tây. Tên tiếng Anh là Duncan Islands.
(11) Không rõ đảo Quảng Kim mà Trung Quốc nhắc ở đây có phải là đảo Đá Lồi với tên tiếng Anh là Discovery Reef?
(12) Tức Đảo Duy Mộng. Tên tiếng Anh là Drummond Island.
(13) Không rõ.
(14) Không rõ.
(15) Tức quần đảo Trường Sa.
(16) Tức đảo trường Sa.
(17) Tức đảo Ba Bình.
(18) Tỉnh Đồng Nai sau này.
(19) Tức hộ tống hạm Nhật Tảo.
(20) 1 dây, tức 1 chain, là đơn vị đo chiều dài ở Anh, tương đương 66 bộ hay 22 yards, khoảng 20.1168 mét.
(21) Tức Trung tá Ngụy Văn Thà, thuyền trưởng hộ tống hạm Nhựt Tảo, HQ-10.
Nguồn: TIEXUE.NET
No comments:
Post a Comment